MỘT QUÃNG ĐỜI
( Những hình trong
chuyện chỉ là dẫn giải)
Trời
đã về chiều, đang cặm cụi trong vườn chợt nghe tiếng gọi:
-Anh Năm, ra nhà em Ba mẹ có chuyện muốn bàn với anh.
- Chuyện gì ? Ba mẹ em đã đồng rồi ý sao ?
Đây là lời đối thoại ngắn ngủi giữa em Hoàng con anh chị
Thái và tôi, cũng là sự mở đầu của chiếc ghe định
mệnh.
Thế rồi hai anh em đánh xe đạp ra nhà anh chị Thái, gặp
anh Tư-râu đang ngồi đợi nơi phòng khách, sau khi bắt
tay và được anh chị Thái cho biết, Tư-râu là Hải Quân
Trung úy, anh sẽ đứng trong ban tổ chức, anh là thuyền
trưởng, chịu trách nhiệm tổ chức,lo bãi, và định hướng
lái tầu. Anh thái có chiếc ghe buồm, cu Năm ráp máy và
ba người đã đồng ý là con tàu chỉ đi từ 32 đến 35 người.
Mọi việc êm xuôi như dự tính, máy mua
của ông Tấn-Hải, ghe kéo lên bờ xảm lại, anh Thái muốn
kêu người Tân-Bình vào làm, nhưng tôi phản đối, vì làm
như thế sẽ bị lộ, lý do người mình không ác ý, nhưng
thích nhiều chuyện, sợ to nhỏ đến tai công-an thì hư sự,
anh Thái đồng ý với tôi nhờ người Xuân-ninh là tiện nhất,
sẵn đề nghị nhờ anh Triều chịu trách nhiệm kêu người làm
và cho cha con anh Triều cùng đi. Thợ máy nhờ anh Tấn
con ông Tấn-Hải, được đi một vợ và một con. Mọi sự tiến
hành chu đáo, dự trù hai tuần lễ nữa sẽ khởi hành,
nhưng phước bất trùng lai, cảm nhận có sự phản bội nhen
nhúm, nên chúng tôi quyết đinh sớm hơn một tuần, nhằm
ngày mồng 5 tháng 6 (mùng năm, mười bốn hăm ba, đi chơi
cũng sợ huống gì đi buôn). Ngày kỵ nên công-an tưởng
chúng tôi cũng tin dị đoan, lúc nguy hiểm lại là lúc an
toàn nhất, mọi chuẩn bị được hoàn tất vào lúc 8:oo tối.
Sáng hôm đó anh Thái, Huệ, Mạnh và
tôi cùng xuống cầu Long-Hồ, đứng ở ngoài đường Quốc lộ
1, như những người mua đồ phế thải, để định hướng lần
cuối, làm sao đưa người xuống bãi an toàn, xong việc về
nhà lo gói ghém một ít thứ cần thiết như quần áo, chanh,
lương khô để mang theo xuống ghe tối nay.
Tôi dục vợ:
- Lẹ đi em, nhờ chị đem đứa lớn ra ngoài đường trước đi,
còn em bế bé Ngân ra sau, nhưng nhớ điểm hẹn bên kia
đường, chỗ chuồng heo HTX., "anh sẽ ra sau".
Page 02
Mọi sự hoàn tất, tôi
thủng thẳng qua nhà hàng xóm, nừa đùa nửa thật,xin họ
cầu nguyện cho.
- Đi mô đó chú Năm.

- Vượt biên.
- Thật không.
- Thật.
Tuy nói thật nhưng hàng xóm cứ
tưởng tôi dỡn chơi như những lần trước, trên đường đi
gặp Phương đầu bự, Chính Túy, cũng những lời đối thoại
như trên, nhưng kèm theo một câu với Chính Túy.
- Mày mà lên phường thọc bậy, coi chừng tao sẽ
chọc tiết mày, biết không?
- Em đâu có.
Cuối cùng gia đình đã tụ tập ở điểm hẹn,
gặp luôn anh chị Thái và mấy cháu nhỏ, tất cả cùng đón
xe đi Hòa-Do. tới ngã ba Suối -Cát, vợ chồng tôi và hai
cháu không dám xuống bãi liền vì trời còn sáng,
làm bộ đi ngược về hướng Suối cát, khoảng một cây số, có
cái quán cóc bên đường, gia đình tôi ngừng lại nghỉ chân,
uống nước chanh, mua ít đồ lặt vặt để câu giờ, vì ngồi
khá lâu nên chủ quán thắc mắc.
- Vợ chồng anh đi đâu mà tối vậy ?
- Ồ, ông ngoại bị bệnh nặng nên phải vào thăm.
- Thế à.
Thật là một câu trả lời buông
thỏng vô sự. Trời sụp tối, vợ chồng con cái lại lên
đường đi vào hướng Suối-Cát một khoảng nữa để đánh lạc
hướng ông bà chủ quán, rồi qua bên kia đường quay trở
lại hướng cầu Long-Hồ tới điểm hẹn cuối cùng. Vừa tới
Quốc lộ 1 thì gặp một tai nạn xe cộ, cũng nhờ tai nạn
này mà tất cả những người vuợt biên không bị lộ, vì Công
an và mọi người đều đổ xô vào tai nạn, chúng tôi trà
trộn vào và tìm cách rời đám đông để đi xuống bãi.
- Phúc à quăng nón đi em, ban đêm đội nón trắng
rất dễ bị lộ.
Vợ tôi dạ một tiến và quăng chiếc nón đang đội, rồi cứ
lần mò theo bờ ruộng để đi trời tối như bưng phải cầm
tay dắt nhau như người mù.
-Anh Năm: cái gì kìa.
-đâu em,
- kia kìa,
- Nằm xuống đi em, chúng ta đi lạc đường
rồi, chòi canh đầu cầu Long Hồ đó.
Page 03
Thế rồi vợ chồng ngồi lại để định hướng
và xem thử động tĩnh ra sao. Chừng mười phút sau, vợ
chồng lại dắt nhau về hướng bên phải dọc theo vườn mía
để về nhà chứa . bấy giờ là 8: 30 tối.
Vừa vào tới nhà chứa thì đụng ngay gia đình anh
Thái.
- Chú Năm, gia đình tôi phải về...
- sao vậy ?
- Đông quá, hơn 96 người, ghe nhỏ xíu làm sao đi được,
gia đình chú muốn đi thì đi, vợ chồng tôi không đi.
- Anh Thái đừng nóng, từ từ mình tìm cách giải quyết.
- Không được.
Tôi nảy ra ý này là chia đôi hai cánh và
được anh Thái mỉm cười chấp nhận.
- Anh chị và mấy cháu dắt nhau ra phía sau
nhà chứa, ngồi ở đó chờ xem sao đã, để em đưa vợ con em
vào trong nhà chứa, và sẽ ra coi tình hình.
- Trăm sự nhờ chú đó, chú Năm.
- Anh chị bình tĩnh, tin ở em.
Tôi nói thầm bên tai vợ:
- mẹ con em ngồi đây, để anh ra
xem thử chiếc ghe có thể đi được không nghe, đừng sợ."
- Dạ.
Vừa ra khỏi nhà chứa thì gặp em Hoàng
- Anh Năm, ba mẹ em đâu rồi ?
- Ông bà già mày đòi về, anh đang kêu ổng
bà ra ngồi sau nhà.
- Đông quá làm sao đi được anh Năm.
- để từ từ tính.., trên ghe có bao nhiêu
nước, bao nhiêu lương thực và bao nhiêu dầu ?.
- Thằng chủ bãi kêu mình phải đóng thêm
vàng, nó mình lừa nó, kêu nó chứa 35 người mà con số bây
giờ lên tới 96 người, nó chỉ cho bốc nước và hai can
dầu, còn lương thực nó không cho lấy.
- thế thì trên ghe có bao nhiêu dầu, có đồ
ăn không?
- Trên ghe đã có hai can dầu, thêm hai can
này nữa là bốn, 50 kg gạo và một bao khoai lang khô, một
ít sữa.
- Hoàng à, nếu ra tới hải phận Quốc tế, thì
ghe mình xài hết bao nhiêu can dầu?
- Khoảng 3 can.
- Đủ rồi, chuẩn bị đi. bây giờ chia họ làm hai
cánh. Cánh A ở trong nhà chứa, và cánh B ở ngoài nhà
kho. Cánh B là của mình sẽ do cu Minh dẫn đường, cánh A
là do em dẫn đường, nên nhớ là cánh này ở lại.
Page 04
- Tại sao không để em dẫn cánh bên này cho
chắc ăn.
- Khổ quá, họ tin em, sẽ chạy theo em. Còn
thằng Minh nó nhỏ, không ai tin nó, nên anh mới phân
công như vậy, biết không?
-Dạ biết.
- Bây giờ em đi qua phía ben kia, anh sẽ
vào đưa vợ con anh và Ba me em ra đây, rồi khởi hành khi
nhận được lịnh.
-Dạ.
- Hoàng à, em nhớ đưa họ đi hình vòng cung,
để kéo dài thời gian, cu Minh sẽ đi thẳng để lên ghe
trước, Hoàng à, nhớ chạy cho nhanh, đừng để họ theo kịp,
nếu không sẽ kẹt hết cả đám.
- Dạ.
Bàn định xong xuôi, bây giờ là lúc lộn xộn nhất, kẻ chạy
tới, người chạy lui, tiến gọi nhau ơi ới, tiếng khóc trẻ
nít... Quang cảnh ồn ào như một cái chợ...nhờ Chúa Mẹ
che mặt nên không bị lộ, con bé Ngân khóc quá, thằng
Thanh sợ bị lộ nên nói:
- Bóp mũi cho nó chết đi.
- ĐM. thằng nào nói đó, con của tao khóc,
thẳng nào ngon làm thử xem...
- !!!
-Anh Năm cho nó uống viên thuốc ngủ đi.
- Uống rồi nhưng nó không ngủ thì sao"
- !!!
Thế rồi mọi sự lộn xộn
cũng dần ổn định, trăng đã lên khoảng 2 sào, nhìn đồng
hồ gần 1: 30 sáng.
- Hoàng, Minh chuẩn bị đi
- Dạ.
Hai
cánh cùng xuất bãi một lần. Nhìn đoàn người đi tìm tự
do, dám đánh đổi cả mạng mình với biển cả, mênh mông
sóng gió.
- Phúc à, cái gì đây để anh coi thử, ôi
cha, cái đầu con nít, để anh cứu nó lên ghe đã, thằng
Thạch, con anh Tư Râu đây mà, em đưa luôn bé Thủy để anh
bồng ra ghe.
Lúc hai đứa nhỏ đả lên ghe, tôi
trở lại để đưa vợ và con nhỏ ra thỉ ghe nổ máy chạy.
" Phúc kìa, mất đứa con rồi...bọn nó bỏ mình rồi."
- Làm sao đây anh ?
Tôi quay bên phải thì may quá, anh
Thái còn đây, tôi nắm cánh tay anh Thái và không cho bơi
ra.
- ĐM, cu Năm, thả tao ra.
Page 05.
- Không, anh kêu chúng nó chạy ghe vào, bọn nó bỏ
mình rồi, mau lên !
- Tổ cha mi Hoàng, Minh, nếu không trở lại, tao
bắn chết hết...
- Kêu nữa đi anh Thái.
- Mụ Ngôi, bảo thằng Hoàng cho ghe vào đây.
Và khoảnh khắc sau có tiếng cu
Hoàng.
- Ba ở đâu ?
- Tao còn đang ở dưới nước với vợ chồng chú
Năm, mau cho ghe vào đây.
- Dạ...
Rồi cu Hoàng xuống phòng lái
định cho ghe vào cứu cha, nhưng chú Triều không cho.
- Chú không cho ghe vào, con sẽ đập bể máy.
Nhìn dáng hùng hổ của Hoàng, chú Triều sợ
thằng con có hiếu làm thật, nên đành phải chiều ý thằng
cháu, chiếc ghe từ từ quay vào, anh Thái lên ghe cùng vợ
chồng tôi. ghe vừa lên tốc độ thì cánh A tràn tới, cũng
may là ghe đã bắt đầu chạy, nên không ai theo kịp, tiếng
kêu.. tiếng khóc lại nổi lên...
- Hoàng
ơi, ông Thái ơi!, anh Tư ơi cho chúng tôi đi với, đừng
bỏ chúng tôi lại.
Tiếng kêu thật não nùng, nghe tội nghiệp cho họ, nhưng
ghe chở đã quá nặng, sắp chìm nên đành phải bỏ họ ở lại,
ước chi ghe lớn hơn nữa để chúng tôi sẽ không để một ai
ở lại. Thôi thì người ở lại bình an, tha lỗi cho
chúng tôi nhé! và chiếc ghe từ từ tiến ra cửa Cam
Ranh.
-
Nằm xuống, chui xuống khoang, vất hết lưới và những đồ
không cần thiết xuống biển đi.
-
Đếm thử bao nhiêu người.
Vì kẻ nằm, người ngồi nên chúng tôi đếm mãi mà không có
kết quả chính xác, kẻ thì nói 40, 50 người nói 59, 63.
Mãi tới lúc ra khỏi cửa CamRanh chừng mấy cây số, mọi
người đã ổn định chỗ ngồi, chúng tôi bắt đầu đếm lại,
trên ghe có tất cả có 53 người, trong đó 16 dứa con nít
và 37 người lớn. Ghe chạy cho tới lúc không thấy bán đảo
Cam Ranh, không còn thấy núi đồi mọi người cảm thấy nhẹ
gánh lo âu hơn.
- Có
tầu kìa.
- Coi
chừng tầu Liên Xô, chạy tránh đi đề ra tới hải phận Quốc
tế hảy hay.
Chiếc ghe lại đổi hướng và tiếp tục cuộc hành trình.
Bây giờ mới kiểm soát lại những vật dụng trên ghe, Không
có Hải bàn, 8 can nước chỉ còn 3, vì lúc khuya đưa lên
ghe đã bị bể hết 5 can.
Page 06
Tuy nhiên mọi người vẫn hy vọng vì nghĩ rằng, ra tới hải
phận Quốc-tế sẽ được tầu vớt, hy vọng tràn trề vào lòng
nhân đạo của thế giới. Ghe chỉ chạy được 24 tiếng thì
máy hư, ống dẫn dầu bị bể.
- Tâm xuống sửa máy đi em.
-
Em đâu có đồ nghề!
-
Thợ máy tại sao không có đồ nghề?
-
Ba em đâu có nói với em
-!!!
Thế rồi tất cả mọi người trên ghe đều đọc kinh, lần
chuỗi... Ghe thả trôi như vậy một ngày, một đêm... thất
vọng bắt đầu tràn ngập tâm tư mọi người.
- Tâm
xuống coi thử có sửa được không em?
-
Để em cố gắng thử.
Với cái kềm và
cái mỏ lết, người thợ máy lục đục, lấy dây quai dép, tìm
cách nối lại ống dẫn dầu, và mấy tiếng đồng hồ sau,
tiếng máy nổ dòn tan khiến mọi người đều sung sướng...và
hy vọng lại tràn trề, lại đọc kinh lần chuỗi tạ ơn Đức
Mẹ.
Không có Hải-đồ, không có Hải-bàn...nên phải định hướng
bằng mặt trời và sao đêm, buổi sáng ghe chạy theo hướng
mặt trời mọc, trời đứng bóng, ghe vẫn chạy nhưng không
đinh hướng, khi mặt trời nghiên về phía tây, Tài công
mới biết mình chạy sai, phải quay trở lại cho mặt trời ở
phía sau tay lái. Ban đêm nhìn sao, gặp đêm trời giông
hay mây mù che khuất, chúng tôi phải chạy theo giác
quan, nghỉa là thấy mình chạy như vậy đúng, thì cứ chạy,
tình trạng lái loanh quanh như vậy trong suốt cuộc hành
trình.
Ghe chạy tới ngày thứ ba, hình như đã tới hải phận Quốc
tế. Những chiếc tầu rất lớn chạy qua chạy lại trong tầm
mắt của chúng tôi, dấu hiệu cấp cứu SOS được kéo lên,
những chiếc khăn trắng cũng được cột lên, những vẫy tay
để cầu xin một chút lòng nhân của nhân loại. Nhưng đợt
này rồi đợt khác, hy vọng được tầu vớt gần như tiêu tan
thành mây khói. Lương thực đã hết, dầu chạy máy cũng
không còn, nước uống còn lại chỉ khoảng nửa can, nhờ anh
em chia mỗi người một tý để thấm môi. Đói và khát khiến
mọi người rã rời, lại đọc kinh và lần chuỗi, niềm tin
của chúng tôi lúc này ở cao độ, gần kề sự chết thì đức
tin càng mãnh liệt hơn.
" Lậy Chúa, lậy Mẹ Maria, chúng con là những người có
tội, không đáng được Chúa Mẹ thương, chúng con đói khát,
có chết chóc cũng đáng tội, nhưng còn 16 dứa nhỏ, chúng
nó thật đáng thương, vô tội, xin Chúa và Mẹ đoái
thương..."
Page 07
Lời kinh cầu đã được nhận lời, và kìa xa xa lại một con
tầu xuất hiện.
- Căng buồm lên đuổi theo.
Nghĩ
cũng buồn cười... chiếc ghe buồm chạy cả tiếng đồng hồ
mới được một dặm, lại đuổi theo chiếc tầu chạy cả mấy
chục dặm một giờ, đuổi theo bất kể ngang hay dọc sóng,
thế rồi tự nhiên, chiếc tàu lớn chạy chậm lại, Chúa và
Mẹ đã mờ mắt cho họ trông thấy chúng tôi chăng?!
Chiếc tầu từ từ quay về hướng chúng tôi, mọi người mừng
rỡ tạ ơn Chúa, Mẹ. Chiếc tầu càng lúc càng gần. Nó chạy
quanh chúng tôi một vòng để quan sát, mọi người trên ghe
nhao nhao cầu cứu, khoảng 15 phút sau, không biết trên
tầu họ bàn định thế nào, mà chỉ quăng xuống biển những
thùng nước và một ít lương thực, xong xuôi chiếc tàu lại
quay mũi, thủy thủ đoàn vẫy tay chào, bỏ chúng tôi lại
giữa biển cả mênh mông với chiếc ghe gỗ chiều dài chưa
tới 8 mét và chiều ngang khoảng 1m 60. không còn dầu để
chạy máy, chỉ hy vọng vào hai tấm buồm nhỏ, chúng tôi
ngẩn ngơ trước sự phủi tay của nhân loại.!!! Lậy chúa
xin cứu chúng con.
- Lái
ghe theo mà vớt lương thực.
Mọi người chợt
tỉnh khi nghe tiếng nói của ai đó trên ghe. Chúng tôi
trở lại hiện thực, bắt đầu vớt lương thực và nước uống.
Anh Vinh , Hoàng, Mẫn và ba Trắng bất chấp sóng gió, cá
mập, bất chấp nguy hiểm nhảy xuống nước, vất vả mấy
tiếng đồng hồ mới xong công việc.
- Ai nấy ngồi yên, cho chúng tôi phát.
Lục đục với sự
phân chia, cuối cùng rồi cũng xong. mỗi người được ít
bánh mì và mấy thỏi kẹo, ai nấy vui vẻ nhận phần mình,
còn mấy can nước để uống chung.
- Phần
của gia đình tôi đâu?
Mọi người nhìn
lại mới biết gia đình tôi chưa có.
-
Các anh làm ăn kiểu gì vậy?
-
Xin lỗi nghe, bây giờ mỗi người bớt một ít cho gia đinh
cu Năm.
-
Đồng ý.
Thế rồi gia đình tôi cũng được một ít để ăn qua ngày,
thương vợ, thương hai đứa con dại, đứa lớn chưa đầy hai
tuổi rưỡi, đứa nhỏ vừa tròn 11 tháng tuổi. Thân tôi sao
cũng được, nhưng phải tranh đấu và làm cách nào để vợ
con tôi được sống.
Chiếc ghe lại tiếp tục hướng Đông, qua ngày thứ
sáu..trên ghe lại không còn lương thực gì, loanh quanh
giữa trời biển mênh mông, như con kiến thả vào thau
nước.
Page.08

Đói khát và kiệt sức, hôm nay lại gặp cơn giông, mọi
người tìm áo mưa để hứng nước, tôi kiếm được một miếng
nylon chiều ngang khoảng hai gang tay, chiều dài khoảng
hai mét, chồng giữ phía trên, vợ giữ phía dưới để cho
nước chảy vào loong sửa, vừa hứng vừa cho vợ con uống,
tàn cơn mưa thì còn lại khoảng hơn nửa loong...và cứ
thế, hễ thấy mây đen là chờ mưa hứng nước, có nhiều lúc
chỉ mưa chỉ lất phất, chúng tôi đã liếm những giọt mưa
trên tay mình hoặc trên lưng của những người khác để đỡ
khát.
- Chú Năm, còn loong sữa, chú cho hai cháu uống đi.
- Cám ơn anh Thái.
- Uống ít thôi em, cho các con uống cầm chừng để cầm
hơi.
Loong sữa được cất lại dưới khoang và sáng hôm sau không
cánh mà bay.
-
Đ M anh H. tại sao uống hết mà không chừa lại chút ít
cho con tôi.
-
Đói quá... mấy đứa con tao uống hết rồi, xin lỗi nghe.
-
!!!
- Anh Năm, loong nước đâu rồi lấy cho em và con uống
cũng được.
-
Ừ để anh lấy cho, loong nước cũng không cánh mà bay.
-
Phúc ơi, loong nước cũng mất luôn rồi.
Tội nghiệp cho vợ con tôi, tưởng để dành hóa ra mình ích
kỷ, tức quá lại chửi đổng chứ đâu còn sức để làm dữ, đâu
còn sức để lật thuyền cùng chết chung, thôi thì mọi sự
phó dâng cho chúa và Mẹ.
Trời nóng như thiêu, mặt trời lại đứng bóng, mọi người
đề nghị dừng ghe lại và nhảy xuống biển để tắm, khi ngâm
nước, lỗ chân lông sẽ hút nước vào, cơ thể sẽ đỡ bị bị
khô và khát nước, có tiếng la thất thanh.
-
A, cá mập cắn chân tôi rồi... cứu tôi với.
-
Đâu đứa nào vậy, cá mập đâu.
-
ha ha...ha giỡn thôi mà.
-
ĐM mày..
Đàn bà và con
nít không dám xuống biển nhưng lấy gáo múc nước xối lên
người cho đỡ nóng.
-
Ba cho con uống nước.
-
Nước hết rồi...đâu còn nữa con.
-
Nước kìa nhiểu rứa, răng Ba không cho con uống, răng mà
Ba ác rứa.
Huệ Mạnh đau
lòng quá, múc đại cho con một ca nước biển.
-
Đây này uống đi.
Thằng nhỏ chụp lấy ca nước làm một hơi, cho tới lúc vị
mặn của nước biển thấm vào vị giác nó mới la lên.
Page.09
- Ba
đắng quá...hu.. hu.. h...u...
Người cha nhìn
con chua xót, biết làm sao hơn...ngậm nùi cho số mạng,
không phải cho riêng mình mà cho hết thảy mọi người trên
ghe, đang vất vưởng trước sự chết.
Qua ngày thứ bảy, một cơn giông thật lớn, những đợt sóng
cao như núi Đồng-gõ, sóng đưa chiếc ghe lên cao, rồi lại
xuống tận cùng vực thẳm, nước xô ập vào ghe, chúng tôi
bắt đầu chia nhau tát nước, sóng càng lúc càng dữ, tôi
đưa vợ con xuống dưới khoang cho đỡ sợ và bớt lạnh.
-
Phúc à! Nếu ghe chìm thì mấy người ngồi ở trên sẽ bị cá
mập ăn trước, còn gia đình mình ở dưới này sẽ chìm sâu
xuống đát biển, mồ của gia đình mình là đại dương đó.
-
!!!.
Nhìn khuôn mặt tiều tụy của vợ và hai con, lòng tôi thắt
lại ước gì chiếc ghe chìm ngay, để vợ con tôi khỏi khổ,
bây giờ sự chết đã kề bên không còn hy vọng sống xót
nữa, nên thần chết không làm tôi sợ, chấp nhận rồi.
-
Chúng mình hãy ăn năn đền tội và dọn mình để được chết
lành đi em.
Vợ tôi im lặng chấp nhận, hai vợ chồng lâm râm cầu
nguyện, khoảng hai tiếng đồng hồ sau biển trở lại bình
thường, mọi người thở phào nhẹ nhõm, tạ ơn Chúa, chiếc
ghe vẫn còn nguyên vẹn, tuy nước đã bắt đầu chui vào ghe
qua những rạn nứt do sóng vỗ vào. thế là tôi được đề cử
làm trưởng toán tát nước, các em thanh niên như Minh,
Cung, Đắc và vài em nữa phải thay phiên nhau tát nước
liên tục 24 /24 nếu không ghe sẽ bị chìm. Một chiếc tầu-
ngầm nổi lên cách chỗ chúng tôi khoảng một cây số, làm
cho ghe của chúng tôi bị lắc lư dữ dội, tưởng là sắp
được cứu sống, nhưng chiếc tầu ngẩm lại chìm xuống và từ
từ mất dạng. Tối hôm đó lại một chiếc tàu chạy qua, trên
tàu không có đèn, nhìn như một chiếc tầu ma. Chiếc tầu
cứ đâm thẳng vào ghe chúng tôi, chúng tôi đốt lửa cầu
cứu, nhưng dường như họ không nhìn thấy.
-
Lái ghe tránh mau...
May mà chiếc
ghe trở hướng kịp thời theo lịnh anh Tư râu, không thì
bị đụng bể nát mất rồi, hú hồn. Chúng tôi cứ chạy như
vậy đến ngày thứ mười, các anh tài công trên ghe không
thể nào cho ghe vào bờ được, cứ chiều chiều thấy một
chiếc tầu đậu cách chúng tôi vài cây số, tối lại đèn
đuốc sáng trưng, chúng tôi cố gắng chạy theo suốt đêm,
nhưng hình như họ cũng chạy để giữ khoảng cách và sáng
hôm sau lại mất tiêu. Chúng tôi lại thấy cả những tầu
chở cây chạy khoảng tầm mắt, nhưng chúng tôi không thể
lại gần, và không biết hướng nào để lái vào bờ.
Page.10
Gió đông thổi ngược như vậy thì không thể nào chạy vào
Phi được.
-
Bây giờ làm sao? Mọi người đã kiệt sức rồi làm sao đây.
-
trở về.... nếu về VietNam thì mấy ngày sẽ tới?
-
Khoảng ba ngày, nhưng mà không được, nếu về thì sẽ bị ở
tù rục xương.
-
Chúng ta chỉ hy sinh bảy người đầu não, để cứu mấy chục
người còn lại.
-
Không được.
-
Bà con nghe đây, chúng ta không thể tới Phi -luật-Tân
được tài công nói chỉ mất ba ngày. Ai muốn về?
Trên ghe bắt đầu bàn tán xôn xao, cuối cùng mọi người
chấp nhận trở về, thiểu số phục tùng đa số, quay về. Thế
là anh em hì hục tháo máy ra quăng xuống biển, cu Hoàng
lặn xuống lấy chân vịt và cây láp ra rồi lấy vải bịt lỗ
hổng lại, chiếc ghe bây giờ nổi lên một chút vì không có
máy và số người trên ghe đã sút cân, thuy nhiên vẫn có
thể thòng tay xuống nước, nước biển vẫn chảy ra vảo theo
lỗ xà qua, hai chiếc buồm lại được kéo lên thang73 lèo
trở về Viet Nam. Mọi người lại đọc kinh lần hạt.
- Mẹ con đau bụng quá.
- chịu khó đi con
-
đau bụng.
"Thật đáng kính phục cho tấm lòng yêu con của người mẹ,
đến lúc không còn một chút hy vọng nào, sức tàn lực
kiệt, vợ tôi nắm tay tôi và nói lời trăn trối.
- Anh Năm, hảy để cho hai con ngậm vú của em, để may ra
những giọt máu cuối cùng của em sẽ nuôi sống hai con
thêm vài ngày nữa, và may ra chiếc ghe đến được bến bờ,
hoặc được tầu lớn cứu vớt, còn em chắc không qua khỏi.
Nếu em đi trước anh hảy thủy táng em. nếu đến được bến
bờ tự do, anh hãy cố gắng nuôi dạy con nên người hữu
dụng, để hai con mình biết phụng thờ Chúa và giúp ích
cho xã hội."
( Tôi xin
được vinh danh những bà mẹ Việt Nam có một tấm lòng cao
cả như thế. Không có tình yêu nào cao quí, trọng
đại cho bằng tình mẹ dám hy sinh mạng sống mình, hoặc có
thể chết để cứu con, cứu người, mẹ
yêu con. )
-
Anh đưa
con cho em để nó ngậm vú tạm, tội nghiệp con tôi.
Có khó khăn mới nhìn thấy tấm lòng hy sinh cao cả của
người mẹ, đói khát đã làm kiệt sức, vậy mà vẫn cố gắng
cho con ngậm vú mình, biết rằng mình không còn súc chịu
đựng nữa, nhưng vẫn hy vọng chia cho con mình những giọt
máu còn lại trong cơ thể, mong cho con được cứu sống,
núm vú đã bị rướm máu vì con, nhưng người mẹ vẫn cam tâm
chịu đựng, " Lậy Chúa xin cứu chúng con".
Ngày thứ mười hai lại gặp một chiếc tàu chạy ngang qua
với tốc độ thật nhanh.
-
Ôm can nước nhảy xuống.
Sau câu nói của anh Vinh,anh ôm can nhảy xuống, Hoàng,
Minh( trí), Minh (Thái), Mẫn cùng nhảy theo, chúng tôi
thấy thủy thủ đoàn chạy ngược lên phòng lái, và vài phút
sau con tầu giảm tốc độ và ngừng lại. Mọi người nằm liệt
trên ghe, chiếc tầu từ từ thả bọ xuống, mọi người nhao
nhao đứng dậy, để mong được cứu lên trước, Chiếc bo bo
đang thả xuống chợt ngừng lại và từ từ kéo lên, bây giờ
thì những tiếng la gần như không còn nữa, tim như ngừng
đập vì thất vọng.\
Page.11
-
WATER...WATER...WATER...
Đó là những tiếng vọng từ đáy vực chỉ mong họ cho ít
nước. cuối cùng tám can nước đã được thả xuống, một ít
lương thực cũng được thả xuống theo. Chiếc ghe của chúng
tôi có lúc cặp xát chiếc tầu lớn, chiếc tầu đang chở
nặng mà đỉnh cột buồm ghe chúng tôi chưa tới vạch đỏ an
toàn của nó. Thế mà họ lại dành tâm bỏ chúng tôi ở lại
đại dương, với nhửng vãy tay tiễn biệt, mỉa mai thay
lòng nhân đạo của thế giới..., chúng tôi lại công tác
vớt lương thực.
- Thằng Minh đâu rồi.
- nhảy xuống rồi.
-
Thằng nhỏ bơi yếu lắm, ai cứu nó lên giùm đi.
-
Đừng lo anh Thái, để em. Anh cầm đầu giây này, em bơi ra
để cứu nó, em cũng bơi rất yếu, nên anh cố gắng giữ giây
cho thật chặt để kéo chúng em vào.
Thằng Minh lên ghe, mọi người cũng hì hục lái ghe theo
những thùng hàng và nước để kéo lên, vất vả cả mấy tiếng
đồng hồ mới hoàn tất. Kiểm lại người thì mất thàng
Hoàng, thằng Mẫn. Bây giờ lại công tác tìm người gió bắt
đầu thồi mạnh, những đợt sóng nhấp nhô làm mặt biển lồi
lõm rất khó quan sát, trời cũng đã về chiều.
-
Trời ơi! Thằng Hoàng, thằng Mẫn đâu rồi.?
Có tiếng khóc
nho nhỏ nổi lên đâu đó trong ghe, như thương tiếc hai
em.
- Thôi mất rồi... cho ghe chạy đi thôi.
Và ghe chuyển
hướng quay về Việt Nam, Chạy khoảng 10-15 phút thì kìa
kìa bọn nó kìa, mọi người vui mừng nhìn theo hướng tay
của anh Vinh và sung sướng nhì thấy hai em. ghe chạy lại
gần kéo hai em lên, thằng Hoàng nhận được cái tát thương
yêu của Ba, vì đứa con trưởng mất đi nay lại tìm được.
-Tụi bay có sợ không?
-
Sợ gì, chúng em thấy ghe của mình mà.
-
Tụi bay làm gì ngoài đó.
-
Tụi em lượm được chai rượu và gói mì, hai đứa bơi lại
với nhau nhậu lai rai chờ mấy anh đến cứu.
-
May không tụi bay ở lại với cá mập rồi, bọn anh đã cho
ghe chạy về may phước.
-
Có Chúa Mẹ giúp đỡ tụi em mà.
Page.12
Giờ thì công tác chia chác đàng hoàng hơn, mọi người
được sáu bảy gói mì ăn liền, trên ghe chia làm 5 đội để
dễ bề chia nước uống, mỗi đội được hơn một can nước. Mọi
người ăn uống xong lại đoc kinh lần hạt tạ ơn Chúa Mẹ "
Xin Chúa dẫn chúng con an toàn trở về. Trong lúc chia
lương thực, chúng tôi thấy một miếng giấy họ viết như
sau:
" Ở đây chờ,
chúng tôi bận công tác ở Panama, bảy ngày sau sẽ trở lại
vớt.
Ghe thì nhỏ, giây neo chỉ được vài chục sải, làm sao neo
ở đại- dương, thôi thì đành tiếp tục chạy về Quê-hương
như dự tính, ghe cứ chạy cho dến ngày thứ 20.
- Thấy đảo rồi kìa.
- Cho ghe chạy vào đi.
Chiếc ghe được lái gần vào đảo san hô, sau đó chúng tôi
biết đây là đảo Hoàng-Sa. Chúng tôi không dám lái ghe
vào gần nên đã bỏ neo xuống ngoài khơi, một chiếc tầu
chiến của Trung Quốc từ trong đảo chạy ra, mọi người vui
mừng và reo lên: " Sống rồi bà con ơi... lấy nước uống
cho đã đi". Mọi người uống nước lạnh mà tưởng như uống
mía ở chợ Hòa Yên. Thế rồi chiếc tầu chiến cập xát ghe
chúng tôi, hai cây súng thượng liên và mấy chục cây AK
chĩa thẳng vào ghe, những tràng tiếng Tàu được phát ra.
Tàu nói, Tầu hiểu, mình nói mình hiểu, định dùng tiếng
anh để làm ngôn từ chung, nhưng rồi bọn Tàu lại cũng
"điếc", thế rồi sau một hồi xí lôp xí xào, họ quăng
xuống cho một can nước và mấy kg gạo, đủ để nấu được một
bữa ăn chung. Chúng tôi thì cứ luôn miệng gào Việt
Nam, Việt Nam, có lẽ họ đoán được chúng tôi đang muốn
trở về nên họ đưa cho chúng tôi một sợi giây thừng làm
hiệu cột vào đầu mui ghe và tầu bắt đầu chạy.
-Kéo néo lên,
-
Dạ
-
kéo không được! neo mắc cạn rồi.
-
chặt giây neo.
Và sợi giây neo được chặt đứt kịp lúc chiếc tầu kéo căng
sợi giây và lôi chiếc ghe đi, những tiếng kêu răng rắc
như muốn bể ghe làm đôi bởi sức mạnh của chiếc tầu, họ
kéo chúng tôi như vậy khoảng 3 tiếng đồng hồ, sau đó tầu
ngừng lại tháo giây thừng ra và vẫy tay tàn nhẫn tiễn
biệt chúng tôi. Lúc này trời không có gió nên biển lặng
như tờ, ghe buồm không thể di chuyển được, mọi người lo
sợ cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, làm tuần kính Đức Mẹ.
Page.13
" Lậy Mẹ
Maria, xin cứu chúng con, xin mẹ cho sóng gió nổi lên,
xin Mẹ đưa chúng con về tới bến..."
Sau khi làm tuần kính Đức Mẹ xong, mọi người vẫn lâm râm
khấn vái cầu nguyện, vả kìa từng cơn gió nhẹ bắt đầu
thổi lên, tạo lên những cơn sóng nho nhỏ, và hai tiếng
đồng hồ sau, gió càng lúc càng dữ, sóng càng lúc càng
to, gió khoảng cấp 5 cấp 6.
- Kéo buồm lên cho ghe chạy.
-
Không được, gió cỡ này kéo buồm lên, ghe sẽ bị chìm
ngay.
-
Sợ gì các anh có đạo các anh cầu nguyện đã được Đức Mẹ
nhận lời, tại sao không dám chạy? Tôi đi biển đã lâu,
chưa bao giờ thấy biển lặng như thế mà sóng lại nổi lên
như vậy được, các anh không chạy để tôi chạy cho, các
anh không có đức tin, tôi là người ngoại giáo, tôi tin
đây là phép lạ và rồi buồm được kéo lên thẳng lèo cho
ghe chạy, vì ghe chòng chành quá, nên buồm được kéo hẹp
lại,bớt xuống hai xép.thuyền cứ thế chạy suốt ngày. Cám
ơn em ba Trắng, nhờ đức tin của em, đã cứu chúng tôi.
Trời tối đen như mực, những đợt sóng dữ dội đập vào ghe,
những cơn lạnh thấu xương.
- Cho vợ con em vào phòng lái với, tội nghiệp hai đứa
nhỏ.
- Không được.
-
Phúc à, cứ bồng con chui đại vào đi, nhờ sự liều mạng,
chịu ngắt, chịu nhéo, để cuối cùng cũng có một chỗ để
tránh gió mưa cho hai đứa con dại.
Một con sóng thật lớn úp ngay vào giửa ghe, ghe ngập hơn
một nửa.
-
Năm, cho người tát nước.
-
ĐM. dẹp đi, đập thêm một cái nữa cho chết hết đi, cùng
một số mạng, không thương nhau...chết hết đi cho rồi.
Vừa dứt tiếng thì một con sóng thứ hai úp ngay vào
ghe, và ghe chỉ còn nổi chừng 10 phân. Hoảng hồn, mấy
đứa bay ra tát nước mau, đám anh em hì hục tát nước,
nước cạn dần và chiếc ghe lại từ từ nổi lên.
-
Hú hồn sao mà biển linh như vậy, kêu đập là đập
liền... con sợ rồi.
Chiếc ghe cứ lắc lư như vậy cho đến sáng, chúng tôi lại
kéo buồm lên, tiếp tục cuộc hành trình không định hướng,
mọi sự phó dâng cho Đức Mẹ, gió hướng nào chúng con theo
hướng đó, và kìa một chiếc tầu đánh cá xuất hiện, nhìn
kiểu tầu thì như tầu Trung Quốc, chúng tôi vui mừng cho
ghe chạy lại cầu cứu, thì đột nhiên năm sáu quả xi nhan
đỏ được bắn lên trời và họ bỏ chạy, chúng tôi ngẩn ngơ
thắc mắc?!!! Ghe vẩn tiếp tục chạy,
Page.14
Chúng
tôi nhìn thấy một đoạn giây cước nổi lềnh bềnh nên kéo
lên, thì ra đây là một đoạn giây câu giăng. Hôm sau anh
em nhà nghề nghĩ ra cột miếng vải trắng vào lưỡi câu để
câu cá.
- Được rồi, hai, ba con.

- tiếp tục câu nữa đi
-
Dạ,
Và 15 con cá nục chuối được câu lên khỏi biển, chúng tôi
bắt đầu lấy dao cắt cá, nhúng vào nước biển để ăn, tôi
lấy ít thịt và đùm ruột cá đưa cho vợ.
-
Ăn đi em, ngon lắm,
-
Không, em ăn không được, anh ăn đi.
Thế là tôi nhúng nước biển và cho vào bao tử ngon lành,
thú thật suốt cuộc đời tôi chưa bao giờ ăn vật gì ngon
lành cho bằng đùm ruột cá sống hôm đó, vừa chua chua mặn
mặn, vừa ngọt ngọt tanh tanh...thật tuyệt vời. Ghe cứ
chạy như thế cho đến ngày thứ ba thì xa xa một lá cờ đỏ
sao vàng xuất hiện.
Đến Đà Nẵng rồi bà con ơi, ai có vàng thì đưa cho mấy
ổng, đút cho Công-an mà chạy, các bà sẽ không sao đâu.
Thế rồi vợ chồng tôi tính toán, còn lại 4 chỉ vàng tôi
sẽ đút lót cho Công -an và kiếm cách về quê cùng cả gia
đình, sống chết có nhau. ghe cứ tiếp tục chạy càng lúc
càng gần, lúc này chúng tôi thấy rõ đây không phải là
đất liền mà là một hòn đảo, ghe tới gần hơn thì thấy
lính Hải-quân, nhìn kỹ lại lá cờ thì không phải cờ Việt
Nam mà là cờ Trung Quốc.
- Cho ghe đâm vào đá bể đi.
- Không được, đứa nào chạy vào coi chừng chết với tao,
bể ghe thì lấy gì mà đi về.
- Đâm vào đi, ghe có bể nó mới cứu mình, còn không nó
lại lôi mình ra như mấy hôm trước.
Và...rầm, chiếc ghe đâm vào đá nứt ra, nước tràn vào đầy
ghe. Người trên ghe trèo xuống, ai còn sức thì lội vào
bờ, nước chỉ tới ngang ngực nhưng không ai đủ sức lội
vào bờ.
-
Anh Năm ơi, đưa em vào với.
Nghe tiếng kêu cứu của vợ, nhưng sau khi đưa hai đứa nhỏ
vào tới bờ, tự nhiên tôi xây xẩm mặt mày như người say
rượu, trời đất quay cuồng không làm sao dứng lên được,
sau này mới biết mình bị say đất. Nhìn người vợ thân yêu
ngoi ngóp với sóng nước mà lòng quặn đau, tha lỗi cho
anh em nhé.
Đám Hải quân Trung Quốc họ cũng ra chỗ chúng tôi để xem,
và may quá họ đã lội ra để đưa những người còn lại vào
bờ an toàn, Chúng tôi ôm nhau mừng rỡ mà nước mắt rưng
rưng, một người Hải-quân cho chúng tôi một bao thuốc lá,
điếu thuốc Vàm-cỏ thật ngon và thú vị, tính từ ngày rời
VN cho đến hôm nay là đúng 23 ngày.
Page.15
Ngày thứ 23, ngày khởi đầu cho một cuộc hành trình mới.
Bộ đội Hải-quân Trung-Quốc bao quanh chúng tôi để coi
người An-nam, có lẽ họ tưởng chúng tôi là dân man rợ, vì
tất cả mọi người đều ăn mặc tả tơi, áo quần mục nát, tóc
tai bù xù, râu ria lởm chởm, người thì đen như cục than
cháy, ốm như bộ xương khô, chúng tôi nhìn lại nhau vẫn
cảm thấy người đối diện thật tội nghiệp. Sau một lúc,
một người lính Hải Quân có lẽ là cấp chỉ huy ở đảo này,
anh ta nói với chúng tôi toàn bằng tiếng Tầu, mọi người
trên ghe đều ngơ ngác, trông như những thằng ngáo, sau
khi xổ ra như vậy, anh ta hình n hư
cũng phì cười vì biết rằng mình mang đàn khẩy tai trâu,
Sau đó anh lại và nói với mấy người lính chung quanh,
rồi họ dẫn chúng tôi vào một cái lô cốt gần đó, lô cốt
mới đổ xi măng xong, chiều ngang khoảng 4 mét, chiều dài
6 mét. Lô cốt được đúc bản âm bản dương, bốn lỗ châu mai
quay ra mặt biển, họ chỉ xây bít ở trên khoảng 2/3 còn
lại để trống. Chúng tôi được lùa hết vào đó theo lối
dốc, họ làm hiệu cho chúng tôi ở đây, chúng tôi gỡ những
miếng vải dùng để đổ xi măng lót xuống đất để nằm ngủ,
chúng tôi tấp vào đảo này khoảng 9 hay 10 giờ sáng, sau
khi mọi người ổn định, những người lính đứng trên lô cốt
nhìn xuống chúng tôi, họ xì xầm cười nói, chợt có tiếng
nói lớn.
-
xực phàn la.
Chúng tôi gật đầu
-
Xực chốc la.
Chúng tôi lại gật đầu, sở dĩ chúng tôi gật đầu vì họ vừa
nói lại vừa lấy tay làm hiệu như ăn một cái gì đó, chúng
tôi đoán là họ kêu chúng tôi có muốn ăn không. thực tế
thì chúng tôi cũng chẳng biết họ muốn gì.
Trưa hôm đó họ mang mấy chục cái loong đồ hộp ( loong
không ) dùng để làm chén, ba bốn người lính hì hục mang
ra một thùng cháo và một can nước, chúng tôi thì thầm
hội ý, cố giữ thể diện dân tộc: Đừng giành giật, đừng để
họ khinh người VN mình.
Tất cả ngồi yên, và cắt phiên nhau chia đều ra, đổ vào
loong cho mỗi đầu người. thật xứng đáng với câu: Đói cho
sạch, rách cho thơm.
Bọn lính thấy chúng tôi thương yêu, nhường nhịn nhau.
Bấy giờ họ nhìn chúng tôi bằng những con mắt thân
thương xen lẫn thán phục.
Page.16
Sau khi thùng cháo cạn, mỗi người chỉ được nửa loong
cháo, chúng tôi chỉ trích sự nghèo đói của Trung-Quốc.
Nước gì nghèo bỏ mẹ, cơm không có mà ăn, toàn là ăn
cháo. cháo mà cũng chỉ cho bọn mình nửa loong khi chúng
tôi đói thế này, ước gì họ cho mình 9- 10 loong thì mới
ăn đã thèm, tệ thật. sau khi chúng tôi ăn xong nghỉ
ngơi, bữa chiều có người lính lại ra hỏi chúng tôi:
- Sực phàn la,
Chúng tôi lắc đầu.
- Sực chốc la,
Chúng tôi sung sướng gật đầu, chiều hôm đó họ lại mang
ra một thùng cháo. Mọi người vẫn ấm ức vì cơn đói, sao
họ không cho mình ăn cơm mà an7 cháo hoài vậy, không
biết họ nói cơm là gì?. Sực phàn cũng cháo, sực chốc
cũng cháo thì sực gì là cơm ?! Anh chị em trên ghe lại
lời qua tiếng lại về chuyện ăn, có lẽ vì đói quá nên ai
cũng nghĩ tới ăn!! Bao tử trên hết mà.
Trời sụp tối rất mau, chúng tôi bắt đầu quây quần với
nhau trong lô cốt, lại đọc kinh, lần hạt rồi đi
ngủ...giấc ngù đến với chúng tôi thật mau. trong giấc
ngủ chập chờn... vẫn nhìn thấy những chén cháo, và ước
mơ có được chén cơm với vài cọng rau muống luộc chấm với
nước mắm gừng thì tuyệt biết bao. Mặt trời lên, chúng
tôi được họ đánh thức dậy và lại cho ăn cháo.
Ngày thứ hai trên đảo, giờ thì những người lính cũng đã
thức dậy, năm bảy anh lính ra chỗ chúng tôi để coi, thấy
họ hút thuốc...Những thằng nghiện thuốc như chúng tôi
nhìn họ mà chảy nước miếng!!! Chugn1 tôi cứ chờ mà không
dám xin, chờ tới lúc họ vất tàn xuống, cứ đề ý xem chỗ
nào, rồi sau khi họ có lịnh tập họp, chúng tôi bắt đầu
đi tìm "dế nhũi", thật tội nghiệp cho chúng tôi... vì
tàn thuốc mà vất xuống san hô, họ đi tới đi lui thì con
dế nó biến mất xuống san hô...còn gì mà kiếm nên chẳng
anh nào kiếm được.
Một lúc sau đó, có lẽ chừng 11:00 trưa, mấy anh lính lại
ra chỗ chúng tôi, ngồi dưới hầm nhìn lên, thấy những đầu
người lố nhố, tôi chợt nhó lại đã có một lần nào đó vào
sở thú Sài-Gòn, đứng trên cao nhìn xuống những con gấu
dưới hầm, chợt buồn cười vì mình bây giờ dược xem như là
những con thú, có lẽ trong đảo họ truyền miệng nhau nên
những người lính tới càng đông.Có tiếng còi hụ...hình
như là tiến còi tập họp, những ngưỡi lính tản ra dần,
chỉ còn lại vài người, họ bắt đầu làm hiệu và hỏi chúng
tôi:
Page.17
-
Sực phàn la,
Chúng tôi lắc đầu.
-
Sực chốc la,
Chúng tôi cũng lac71 đầu, nhìn gương mặt người lính
nghệch ra, có lẽ anh ta thắc mắc, bọn An-Nam này không
biết đói hay sao, kêu ăn gì cũng lắc đầu!!!. Rồi anh ta
cũng biến mất, và trưa hôm đó chúng tôi lại thấy những
thùng lương thực và nước uống được mang ra, khi đã để
xuống, một người trong chúng tôi đã thấy thùng cơm nên
la lên " có cơm bà con ơi". khuôn mặt của 53 người chúng
tôi vui hẳn lên "mình có cơm ăn rồi" . Chúng tôi bắt đầu
chia cơm, lại chê Tung-Quốc nghèo. Lúc chúng tôi ăn cơm
xong thì thấy ba, bốn người lính mang quân hàm, có lẽ
cấp cao, bây giờ tôi không nhớ họ mang cấp bậc gì, họ
tới chỗ chúng tôi kêu anh Tư-râu, anh Thái, anh Hòa, anh
Vinh và tôi cùng đi với họ ra ghe, ra tới nơi thì hỡi
ơi!! ghe không còn nữa mà chỉ thấy những miếng ván trôi
lềnh bềnh trên biển, có những miếng ván đã trôi dạt vào
bờ, thế là " CHIẾC GHE ĐỊNH MỆNH" đã được an bài. Chúng
tôi trở vào, bây giờ chúng tôi mới thấy chân mình đau
nhói vì không có dép, lại lội trên san hô nên bị cắt
nhiều chỗ. Chiều hôm đó chúng tôi lại được họ cho ăn
cơm, bữa cơm hôm nay được nhiều hơn, khoảng 2 chén, mọi
người cảm thấy ấm lòng nên vui vẻ hơn. Có một số anh chị
em vì uống nước quá nhiều nên chân bắt đầu mập ra( bị
thủng) da căng lên bóng láng, lấy tay đè xuống, thịt
lúng sâu gần cả lóng tay, những đúa nhỏ bắt đầu sinh
bệnh, bé Thủy, bé Ngân bị lên rạ thủy, những cái bọc
nước nổi lên ngoài da như phỏng lửa. bảy tám cái mụt
nhọt lớn khoảng trái cà pháo mọc lên. Nhìn các con mà
lòng đau như dao cắt...biết làm sao hơn, các con chịu
khó hy sinh dâng cho Chúa và Mẹ, Chúa Mẹ sẽ cứu chúng
mình. Với bệnh tình của hai đứa nhỏ, bác sĩ Quân Y cho
thêm nước và thuốc để uống, họ dùng lưỡi dao lam cắt
miệng và lấy thuốc dán, dán vào vài ba ngày sau cái mụt
nhọt biến mất mà không để lại dấu thẹo, cứ như thế hễ
cái mụt nhọt nào sưng to là họ lại làm như vậy, còn rạ
thủy không hết được, tội nghiệp cho con tôi. Người lớn
cả tháng không đi cầu, mà cũng chẳng còn gì để đi nên bị
táo bón, người không còn sức phải nhờ lính dắt đi đại
tiện...ngồi cả mấy tiếng đồng hồ mới đứng dậy, có những
anh lính vẫn đứng xa xa để chờ để dẫn vào, họ tốt quá,
cám ơn tấm lòng cao cả cùa các anh. Ngày thứ ba, chúng
tôi dậy sớm hơn, những người lính cũng đã có mặt, chúng
tôi bắt đầu làm quen với động từ quơ...quơ tay, quơ chân
để diễn tả ý mình, một người lính lấy gói thuốc ra hút,
một em nào đó đưa tay xin... thế là mỗi người được
một điếu thuốc để hút, có lẽ vì thuốc của họ có tiêu
chuẩn nên không thể nào cho chúng tôi nữa, không sao đâu
các anh, chúng tôi thông cảm với các anh mà.
Page.18
Trưa hôm đó người sĩ-quan hôm qua trở lại với mấy người
lính Hải-quân nữa, chúng tôi nghe có tiếng Việt nổi lên
trong đám người này.
" Ai là
chủ ghe, ai là thuyền trưởng?"
Anh Thái và anh Tư dược mời ra dể nói chuyện. Tên ngưởi
lính đó là Phi, anh là người Tầu nhưng lón lên ở
Việt-Nam, anh trở về sau khi miền Nam sụp-đổ . Anh dược
lệnh cấp trên đưa ra đây làm thông dịch cho chúng tôi.
Anh cho chúng tôi biết dây là đảo Tây-Sa. Đảo này VN. họ
đem quân ra đây xây lô-cốt để làm tiền đồn chống sự xâm
chiếm của VN. Ba người sĩ-quan là cấp chỉ huy của
Tiểu-đoàn, anh cho biết là ở đảo Tây-sa này không có
nước ngọt, nước được chở ra tử đảo Hải-Nam, chính phủ
cũng không có chương-trình giúp-đỡ cho những người
vượt-biển VN. nên những người lính trên đảo phải bớt
phần ăn của họ để nuôi sống chúng tôi. hèn gì cá rau lộn
xộn, bây giờ thì chúng tôi biết, sau khi lính ăn xong,
họ gom hết bỏ vào thùng cho chúng tôi, bữa nhiều bữa
ít... Tuy nhiên chúng tôi rất mang ơn họ vì họ thiếu
thốn mà vẫn cia sớt cho chúng tôi. Anh Phi cũng giải
thích cho chúng tôi biết. xực-phàn là ăn cơm, xực
chốc-lát là ăn cháo, xực-dín là hút thuốc. Mấy hôm trước
họ cho ăn cháo, mà lại cho ăn ít vì họ sợ chúng tôi đang
đói mà ăn cơm thì không tiêu, ăn cháo nhiều thì bị bội
thực chết, cho nên họ cho chúng tôi ăn cầm chừng. Xin
lỗi các anh, chúng tôi đã hiểu lầm ý tốt của các anh mấy
hôm trước.
Thế rồi ngày nào anh Phi cũng ra nói chuyện với chúng
tôi, nói đủ mọi thứ chuyện, có những lúc chúng tôi ngồi
hát chung với anh, hát những bài hát quê-hương, những
bài tình ca.... anh Phi cũng thuộc khá nhiều. buổi chiều
thì người thông dịch viên trở lại doanh trại, và những
người lính khác lại ngồi quanh chúng tôi để nói chuyện
bằng tay hay xí-lô, xí-lào cho có chuyện, có người lính
đề nghị chúng tôi hát, tôi và anh Hòa nghĩ tới chuyện
hát để kiếm... thuốc. Anh Hòa dạy vợ tôi hát một bài
bằng tiếng Tầu mà anh học được lúc còn ở trong tù, bài
hát đó bây giờ tôi chỉ còn nhớ một câu:
" Oăn xiềng
tô, xiềng tồ mà xiềng diêng..."
Anh Hòa cũng chẳng hiểu nghĩa tiếng Việt là gì, cứ hát
đại, hát để kiếm thuốc mà sợ gì. Sau khi hát xong thì
ngửa tay ra "xực-dín", nghĩa là thuốc-lá
Page.19
Những anh lính cảm thấy hay hay nên lấy thuốc cho vài
điếu. Họ đề nghị hát nữa, thế là vợ cu-Năm lại có dịp
trổ tài, hát những bài nhạc tiền-chiến, những bài tình
ca, họ chẳng hiểu gì ! nhưng sau những bài hát của chúng
tôi, họ lại cho vài điếu thuốc. Ngày hôm sau lại tiếp
tục như vậy, lắm lúc họ cho gói đường nho nhỏ, được gói
đường, vợ chồng tôi mừng như được trúng số, để dành cho
hai con ăn, vì ở dưới biển quá lâu, cơ thể thiếu chất
ngọt, nên khi được muỗng đường, hai cháu vui đến nỗi làm
cha mẹ cũng phải sung-sướng nhìn con mà chảy nước mắt..
Chúng tôi vẫn sinh hoạt như thế cho đến ngày thứ
mười-sáu, những ngày ở đây mọi người không được no lòng
cho lắm, nhưng vì chia đều..gia đình tôi được bốn phần,
hai con thì ăn không hết một phần nên tôi lúc nào cũng
no dạ.
Hôm nay anh Phi cùng các cấp chỉ huy đã ra chỗ chúng tôi
cho biết là ba ngày nữa, chúng tôi phải rời đảo, chúng
tôi năn nỉ vì đã quá sợ biển cả, e rằng sẽ lại bồng bềnh
sóng nước như trước. Họ nhất định không cho vì đây là
lệnh của trung ương. Họ hỏi chúng tôi có vàng, có đồng
hồ đưa cho họ, họ sẽ cho chúng tôi một chiếc ghe khác,
chiếc này lớn gấp hai ghe của anh Thái, ghe này của
người Quảng-Ngãi vượt biên năm 76, họ bị bắt và bị trả
về cho VN., còn ghe họ giữ lại để dánh cá kiếm thêm bồi
dưỡng cho binh sĩ, bây giờ vì ghe của chúng tôi bị bể
nát, nên họ đành phải nhường lại cho chúng tôi. Đêm hôm
đó chúng tôi họp lại và đồng ý như sau:
Vợ chồng tôi một chỉ, vợ chồng cu Tâm một chỉ, anh Tư,
anh Vinh, anh Thái và một người nào đó nữa là bốn, bốn
người này mỗi người một cái đồng hồ, sáng hôm sau chúng
tôi giao cho họ, tuy ít nhưng họ cũng vui vẻ nhận lấy,
họ nghĩ rằng chúng tôi đang giấu diếm họ, không đưa hết
vàng cho họ nhưng họ vẫn không làm gì. Cám ơn các anh.
Trưa hôm đó chúng tôi xin họ cho xuống bãi biển để tắm,
họ chấp nhận và lúc xuống tắm, chúng tôi phát hiện nhiều
ốc tai tượng, nhiều con hả miệng xanh lè dài gần cả hai
gang tay, chúng tôi xin họ cho bắt và được chấp nhận,
những con ốc được cạy lên, cắt ra rồi bỏ vào loong để
nấu ăn, thấy người ta ăn vợ chồng tôi cũng bắt ít con
đem nấu cho các con ăn.
" Anh Năm, xuống biển kiếm vài con ốc để ăn".
" Thôi mệt bỏ mẹ"
" chịu khó bắt ít con cho các con ăn, tội nghiệp các
con."
" Thôi khỏi đi"
Page.20
Vợ tôi giận lẫy bỏ xuống biển một mình, kiếm thêm thằng
Sinh ( người Nha-Trang) đi chung, vợ tôi đi trước để
phát hiện, em Sinh lấy cây cạy lên đem về.. chia đôi,
vất vả mấy tiếng đồng hồ mới kiếm được vài con, cắt ra
nấu được một loong. Tuy buồn chồng nhưng khi ăn cũng kêu
chồng lại ăn.
"
Anh Năm, đưa các con lại đây ăn, em bắt dược mấy con ốc,
nấu rồi, ngon lắm lại đây mau"
"
Ừ, chờ một chút."
Vậy là gia đình vui vẻ hạnh phúc bên nhau. Ngày
thứ 18 thì bộ chỉ huy Tây-sa cho chúng tôi biết, ngày
mai phải lên đường. Họ trang bị cho chúng tôi Hải-bàn,
hải-đồ, một phi dầu, hai phi nước, một tạ gạo và một ít
lương khô, chúng tôi với tâm trạng phập phồng lo sợ khi
bị trả về với biển.
Tối hôm đó, anh em binh sĩ ra chỗ chúng tôi đông hơn, họ
nhìn chúng tôi thông cảm, có anh cho tôi một cái quần
đùi, một gói thịt và một hộp lương khô, anh cho chúng
tôi lén lút vì sợ cấp trên sửa phạt, cám ơn anh. Chúng
tôi lại đọc kinh lần hạt, việc gì đến rồi cũng đến. Sáng
hôm sau chúng tôi dậy gom góp đồ đạc dể xuống ghe. anh
Phi cho biết, cấp trên không muốn chúng tôi vào đảo
Hải-Nam, mà phải chạy thẳng qua bên Hồng-Kông, tuy nhiên
vì trời sắp có bão lớn, nên anh khuyên chúng tôi cứ chạy
thẳng qua Hải-Nam, anh tiết lộ cho chúng tôi biết, khi
tới Hải-Nam, đừng tỏ vẻ chống cự khi có lính dí súng vào
các anh, đừng sợ vì tất cả đã có lệnh của trung ương là
phải hướng dẫn cho những chiếc ghe vượt biển VN.tới
Hồng-Kông.
Năm mươi ba người lại khăn gói lên đường, Chia tay
bịn-rịn với những người lính, nhất là với anh thông dịch
viên, chào các anh nhé... xin Thiên-Chúa trả công bội
hậu cho các anh. khi mọi người đã lên hết trên ghe, máy
ghe bắt đầu nổ thì những chiếc nón lá kiểu Trung-quốc
của những người lính được quăng xuống ghe của chúng tôi
khoảng chừng 20 cái, người nào chụp được thì dội ngay
lên đầu, giờ thì nhìn chúng tôi hệt những người Tầu. Ghe
bắt đầu chạy...hàng trăm bàn tay giơ lên vẫy chào tạm
biệt.Trong số chúng tôi cũng có những người chảy nước
mắt vì chia ly. thế rồi họ ra lệnh cho chúng tôi chạy
theo chiếc ghe trước dẫn đường, chúng tôi theo sau, cứ
như thế họ chạy khoảng sáu tiếng đồng hồ thì ngừng lại,
họ vẫy tay chào và chúng tôi cứ hướng đó mà đi, hình như
là 280 độ trên hải -bàn.Mười chín ngày trên đảo Tây-sa,
những vui buồn xin trả lại đảo nhỏ, Tạm biệt em nhé
Tây-sa.
Chiếc ghe của chúng tôi cứ thẳng hướng mà chạy, 2 ngày
đêm...cho tới ngày thứ ba thì tới dảo Hải-Nam, mấy ngày
không có gì trở ngại, chỉ như một chuyến du hành.
Page.21
Chúng tôi tấp vào bến cá của đảo Hải-Nam, dân chài ở đây
cho biết sắp có bão lớn, phải cho ghe chạy sâu vào trong
lạch, ghe dược kéo lên trên cạn và dược cột vào một gốc
cây thông khá lớn, để bảo đảm khỏi bị nước lũ cuốn ra
biển. Khi đã cột ghe xong thì mọi người vào xóm chài,
xóm này chỉ có một vài người ở một cái quán cóc và một
tiệm hớt tóc, những căn lều khác được dựng bằng lá để
cất lưới và chèo. Người chủ quán là một ông già biết nói
tiếng Việt, nhờ ông mà dân địa phương hiểu và thông cảm
với chúng tôi, ông cho chồng chúng tôi tạm dùng mấy cái
lều chứa lưới để nằm nghỉ, cho vợ chồng tôi mượn hai cái
áo-tơi, một cái dùng để trải dưới đất, một cái dùng để
đắp, áo- tơi cũng được đan bằng lá.
Chúng tôi ngủ lại đây một đêm, đêm ngủ thật an lành.
Sáng hôm sau, anh em trên ghe quyết định không dùng
lương thực chung, mà là tự túc, bước đầu của đời hành
khất. khoảng 9 giờ sáng hôm sau, có thêm một ghe của
người Đà-nẵng tới, ghe có khoảng 16 người, chiếc ghe
cũng chạy sâu vào trong rạch, họ cùng chúng tôi tự túc ở
đây.
Đầu tiên chúng tôi đợi những chiếc ghe đánh cá vào để
cầm loong ra xin cá, họ cho chúng tôi những con cá nho
nhỏ, tuy thế cũng rất quí với chúng tôi, thấy bà con có
cá ăn, vợ tôi cũng cầm loong ra kiếm chác, nhưng lại mắc
cở, không sao mở miệng được. Người lù khù có con cù hộ
mạng... một người nhì thấy dáng ngao ngán của em An-nam
thì thương hại thì kêu lại ghe của ông ta, chỉ vào
thuyền và cho lấy một ít cá, cô em bèn bươi cá lên thì
thấy mấy con mực nho nhỏ, đổi ý không lấy cá nữa mà muốn
xin mấy con mực, người chủ ghe đồng ý. Thế là trưa hôm
đó gia đình chúng tôi có một bữa ăn thật ngon với mực
kho muối. Hôm nay nhờ ông chủ quán nói với người hớt tóc
ở đây, ông ta đả giúp cắt toc cho chúng tôi, người thợ
tóc đả phải lấy khăn bịt mũi, vì đầu của chúng tôi hàng
tiểu-đoàn chí... vuốt tóc một cái, có thể tóm được mấy
em. Cũng nhờ ông chủ quán chỉ cho chúng tôi dường vào
làng, lội qua hai đồi cát thấp, rồi băng qua một con
suối thì tới làng, khoảng chừng ba cây số. Chúng tôi đã
học được những chữ: gạo bắp, khoai-lang, dừa, cá, muối
bằng tiếng Tầu.
Trưa hôm đó, một đoàn "hành-khất" tràn vào làng, gia
đình tôi cũng ở trong đám hành khất đó, chồng mang bị
gậy cõng bé Thủy, vợ bồng bé Ngân... băng đồi lội suối
để kiếm ăn, lần đầu trong đời "hành-khất". Đi gần
một tiếng đồng hồ thì tới làng, vợ chồng tôi kiếm một
gốc cây ngồi nghỉ chân. Đột nhiên tiếng ồn ào từ trong
xóm vang ra, tiếng trẻ con kêu lớn: An-nam la, một đám
người lớn và trẻ nít bao quanh chúng tôi để gọi người
An-nam. không biết họ được tuyên truyền thế nào về người
Việt-Nam chúng ta, mà khi thấy chúng tôi, họ ào ào gọi
nhau ra coi, như là đi xem hát xiệc, vợ chồng chúng tôi
mắc cở quá, nên phải đứng dậy dắt con đi, không dám ngồi
ở đây nữa. Len lỏi theo đường mòn vào sâu trong
làng. Tới gần một căn nhà, vợ tôi nói:
Page.22
-
Anh Năm, anh vào gõ cửa xin đi!
-
Không, em là đàn bà dễ nói hơn, họ dễ thông cảm với đàn
bà và con nít hơn đàn ông.
-
Em không đi đâu.
-
Đi đi, em dẫn hai con vào xin trước, rồi khi họ cho, em
gọi anh đem bao vào lấy.
-
Em không đi, từ nhỏ tới giờ, em đã bao giờ em đi xin ăn
đâu. tại sao anh đưa em đi, bây giờ bắt em phải ăn
xin.... anh đi đi.
-
Anh cũng đã ăn xin bao giờ đâu,
Thế rồi hai vợ chồng lời qua tiến lại, giận lẫy nhau,
chồng bồng con đi trước, vợ bế đứa nhỏ theo sau, đi thêm
năm bảy căn nhà nữa cũng dám tới gõ cửa. Thế là vợ chồng
mặt mày một đống... kiếm gốc cây ngồi nghỉ, lại tiếng
nhao nhao ồn ào, một lúc sau vài đứa con nít và một vài
người đàn bà trung niên tới, họ xầm xì bàn tán chỉ chỏ,
chúng tôi chẳng biết họ muốn gì?. Một lát sau, mấy người
đàn bả đi khỏi, khoảng 15 phút sau họ trở lại, kêu thêm
năm-bảy người nữa, trên tay họ cầm một ít đồ đạc, thì ra
họ đi về lấy đồ ăn cho chúng tôi, một bà cầm nửa trái
bầu cắt dọc, ở đây họ dùng đơn vị đo lường bằng trái bầu
tròn, loại bầu trên nhỏ, giữa thắt lại, dưới phình ra,
người Việt ta ngày xưa dùng để dựng nước hay rượu. người
ta cầm đầu nhỏ, và đầu lớn dùng đựng gạo. bầu chứa gạo
dược chừng nửa kg. Họ làm hiệu cho chúng tôi mở cái xách
ra, lần lượt đổ gạo vào cho đầy, một vài người phải mang
gạo về, vì túi xách của chúng tôi hết chỗ chứa, xách gạo
chừng ba bốn kg. Họ lại còn cho chúng tôi hai cái mũ cho
hai đứa con và một cái quần đùi cho tôi, tuy cũ kỹ,
nhưng thật quí cho chúng tôi lúc này. Họ còn cho chúng
tôi một tô cháo trắng với mấy con cá trích kho mặn trắng
nhợt bỏ trên, ý họ nói là cho hai đứa nhỏ và vợ tôi ăn
để có sữa cho con bú. Hai đứa nhỏ không ăn, vợ tôi cũng
không muốn ăn vì không đói nên đua cho tôi và bảo tôi ăn
đi. tô cháo vừa đưa qua tay tôi thì bị họ lấy lại, ý là
đàn ông không cần, mà dành cho đàn bà con nít thôi. Hai
chúng tôi nhìn nhau vừa buồn cười, vừa xấu hổ, cuối cùng
họ đưa cháo cho chúng tôi,nhưng tôi không còn muốn ăn
nữa.
Page.23
Đây là
lúc chúng tôi cười ra nước mắt trong đời, tuy nhiên cũng
rất cám ơn các bà, giờ thì hai vợ chồng lại thông cảm
nhau và vui vẻ mang chiến lợi phẩm về hậu cứ, trên đường
về, tôi xách gạo nên bé Thủy phải đi bộ. Thủy thấy Ngân
được mẹ bồng nên cứ đòi được mẹ cõng, vì sức khỏe chưa
hồi phục nên tôi nói với con, chịu khó đi bộ nha, ba
phải xách đồ nặng đây này, con thấy không.
-
Sao ba đưa con đi, làm khổ con vậy?
Xót xa
nhìn con dại, lời nói thơ ngây của con làm lòng cha
se-thắt.
- Tới đây ba cõng.
Con bé
hớn hở sung sướng, chạy đến cắp cổ Ba và nằm gọn trên
lưng Ba. Cho dù rất mệt mỏi nhưng nhìn con tươi vui,
mình cũng cảm thấy hạnh -phúc.
Chiều hôm ấy chúng tôi nấu được một bữa cơm thật nhiều,
nhìn chén cơm trắng bốc hơi và những con mực kho mặn
thật ngon lành.Sau khi ăn xong thì trời bắt đầu kéo mây
đen nghịt và gió thổi mạnh, được ông già chủ quán cho
biết, theo đài phát-thanh thì tối nay bão sẽ đến cấp
tám, mưa lớn vì thế chúng tôi phải di chuyển đến một
chòi khác, cái này hai đầu bịt kín, có cửa ra vào, lều
cũng lợp bằng lá, gia đình tôi, mẹ con bà Bày và cu Sinh
cũng ở chung một lều, chiều tối mấy bà kiếm củi nấu cơm,
tôi có nhiệm vụ trực ghe tối nay, nên phải ở trên ghe để
coi chừng. Khoảng bảy-tám giờ tối... gió bắt đầu thổi
mạnh và mưa nặng hạt, gió càng lúc càng to,mưa càng lúc
càng lớn, nước lũ từ trên nguồn đổ xuống ào ào, mực nước
dâng lên cao, sóng cứ đập vào ghe càng lúc càng nhiều,
nước tràn vô ngập ghe, tát không kịp nổi nên chiếc ghe
bị chìm!! tuy nhiên nhờ ghe đã được cột chặt vào gốc cây
nên đến sáng hôm sau, nước rút đi nhưng chiếc ghe vẫn
nằm lại tai chỗ.
Ghe chìm, tôi bỏ ghe chạy vào... thấy bà Bày, cu Sinh và
vợ tôi đang níu đòn giông xuống để giữ cho lều khỏi bị
bay đi vì cơn bão, dưới đất hai đứa nhỏ đang níu chân
mẹ, nồi cơm thì đang sôi, thấy cảnh như vậy mà gió ở
ngoài lại rất lớn, nên tôi la lên, " thả ra và chạy
mau". sáu cánh tay vừa buông ra, căn lều bị tung lên như
cánh diều bay ra biển, chúng tôi mỗi người một đứa nhỏ,
cu Sinh xách nồi cơm, chạy vào một căn nhà gần đó, căn
nhà hình như của hợp tác xã, 53 người của chúng tôi và
16 người của ghe bạn đều vào trốn mưa bão ở đó, nhờ nhà
xây nên chúng tôi có được chỗ tá túc an toàn.
Lúc ghe chìm, mấy can dầu và can nước lại nổi lên trôi
theo con nước ra cửa biển, cu Hoàng,Mẫn và thêm mấy
người nữa, bất chấp nguy hiểm của mưa bão, bơi ra cửa
biển để đẩy mấy can dầu và nước vào.
Page.25
Cám ơn sự
dũng cảm của các anh em nhé. Ngày hôm sau nước
rút, ghe lại nằm trên cạn, chúng tôi tát nước ra, lau
chùi lại máy và thật may mắn, máy không bị hư hại gì. Cu
Tâm cho máy nổ thử, anh em nhìn nhau sung sướng. Ngày
hôm nay chúng tôi ở nhà lo phơi đồ đạc, tắm giặt và kiếm
chỗ nào kín gió để sống qua những ngày hành khất, cho
tới lúc không còn gió bão nữa mới dám ra đi, nhưng biêt
đến bao giờ, tin tức chúng tôi biết được đều nhờ ông già
bán quán. Ông nói gió có thể kéo dài cả tuần lễ.
- Anh Năm, đi
xin khoai lang và dừa về ăn.
- Ừ, để anh hỏi ông già cái đã, hỏi ông khoai lang và
dừa, tiếng Tầu là gì.
Sau khi học thuộc lại bị gậy lên đường, vào tới đầu làng
đã thấy mấy đứa nhỏ dứng luẩn quẩn, chì chỏ những người
An-nam, họ cũng kêu nhau ra xem, chúng tôi cúi đầu đi
sâu vào làng. Hôm nay mới có thì giờ nhìn kỹ quang
cảnh làng mạc, những ngôi nhà được kiến trúc theo lối cổ
xưa như trong film, có lúc hai ba căn nối liền với
nhau,cũng có khi một vài căn riêng biệt, những cây rừng
lớn họ vẫn để nguyên, chỉ khai quang đủ chỗ làm căn nhà
nhỏ với một cái sân nho nhỏ. Sở dĩ họ làm như vậy vì năm
nào cũng có mưa bão, nên họ phải giữ cây rừng lại để cản
gió và đất khỏi bị trôi đi. Nhà thường không có hàng rào.
có những con dường nhỏ ăn thông với nhau từ nhà này sang
nhà khác, họ cũng có một con đường đất lớn để lên tỉnh.
heo và gà họ nuôi không có chuồng, họ thả chúng tự do
trong làng , tuy vậy trên đường đi chúng tôi không thấy
phân heo hay phân bò, tôi thầm thán phục về sự ăn ở sạch
sẽ của họ. sau này mới biết, đồ thải của súc vật ra họ
rất quí, nên người nào thấy đều tự động hốt đem về nhà
đề bón cây. Xin được ít khoai lang và dừa, tôi khoái chí
quay về. Ra khỏi làng gặp cu Hoàng, và anh em cùng về,
tới mé sông...chợt cu Hoàng chỉ tay về hướng xa xa.
-Anh
Năm, có con heo chêt đuối kìa.
-
À ha, có lẽ nó bị chết đuối ngày hôm qua, mình tới coi
xem sao.
Hai anh em tới và thấy một con heo, nặng khoảng 15
kg., heo còn tươi nên anh bàn nhau đem về thịt. Lúc này
thì anh em chúng tôi rất thèm thịt, nhất là thịt mỡ...vì
cả tháng nay chúng tôi chua có một miếng thịt tươi nào
cả. Thế là chúng tôi hì hục khiêng con heo về. nấu nước
sôi, rồi cạo lông... nhìn con heo trắng nõn mà phát thèm.
lấy dao xẻ thịt, mổ bụng ra thì ngửi thấy mùi hôi hôi...
xẻ thịt ra thì thấy những hạt trăng trắng như hạt gạo
trong thịt. Bàn đi tính lại... thấy đây là heo gạo nên
không dám ăn, thôi đành trả con heo về với nước.
Thôi thì " của Xê-gia thì lại trả lại cho Xê-gia", dù
trong lòng chúng tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Tối nay chúng tôi
lại phải ăn cơm với cá mặn.
Qua hôm sau, chúng tôi tới chòi chị Thái-Ngôi, hỏi chị
cho đứa nào đi xin gạo, cu Hoàng muốn đi, thế là anh em
chúng tôi bị gậy lên đường. Băng đồi lội suối vào trong
làng, sinh hoạt trong làng cũng bình thường, chúng tôi
đi ven theo mé sông, có một số người đã mang quần áo ra
giặt, họ nhúng nước rồi bỏ quần áo trên đá, lấy cây đập
đập rồi lại nhúng xuống nước xổ cho sạch, vắt khô rồi
đem về. Lối giặt này có lẽ có từ thời A-dong, E-và, anh
em chúng tôi đi một khoảng đường nữa, rồi vào gõ
cửa một nhà, cửa mở, một bà trung niên thấy chúng tôi
mang bị xin gạo, chị không cho…lại xổ ra một tràng tiếng
Tầu, rồi chỉ tay về hướng mặt trời mọc. anh em chúng tôi
chẳng hiểu gì cũng gật đầu đại rồi chị đi trước, làm
hiệu cho chúng tôi đi theo, chị dẫn chúng tôi tới một
cái máy xay lưu động. Sau này chúng tôi được biết, ở đây
máy xay gạo chạy tới từng đội để xay gạo, chị ra dấu cho
chúng tôi ngồi xuống, chị đi tới nói gì với anh thợ xay
không rõ. Vì chưa tới giờ, các anh lại chỗ chúng tôi để
nói chuyện.
-
An-nam la?
Chúng tôi gật đầu.
-
Bắc-duột la? ( Bắc việt hả)
-
Mậu-la, Nam –duột ( không phải, Nam việt)
Và rồi câu chuyện bằng tay lại tiếp tục, tôi vẽ xuống
đất một cây súng dài và cây súng ngắn đàng trước, ý nói
là trung đội trưởng, khi nào hô xung phong là đám cầm
súng dài phải tiến tới, rồi Bác-duột tả Nam-duột, Nam-
duột tả lại… cuối cùng Nam-duột bị thua, chúng tôi phải
chạy khỏi nước. Không biết họ có hiểu gì không!!! Nhưng
thấy họ có vẻ thông cảm vả gật đầu. sau đo họ bắt đầu
quay máy để xay gạo. Cứ mỗi lần xay xong cho một người,
họ múc cho chúng tôi một múc (nửa rrai1 bầu), ai quên
thì anh xay gạo lại nhắc, cứ thế cu Hoàng mở bao cho họ
đổ gạo vào (bao này do chị tốt bụng dẫn chúng tôi ra đây
cho), cứ như vậy cho tới trưa, bao gạo đầy ắp, chúng tôi
không có chỗ chứa nửa nên phải ra về. trong lúc anh em
đang tìm cách may miệng bao lại thì chị tốt bụng lại
xuất hiện, chị làm dấu quay quay rồi quạt quạt.
-
Anh Năm, bà này muốn chi rứa?
-
Biết đâu, mình cứ gật đầu đai đi.
Và chị quay
đi, chạy về nhà lấy nia, mẹt, dần sàng… bày ra và làm
sạch sẽ gạo cho chúng tôi, chị vất vả cả hơn tiếng đồng
hồ.
Page.25
Bây giờ, bao
gạo đã lưng đi đôi chút, anh em chúng tôi có thể túm lại
để khiêng về. Chúng tôi cúi đầu cám ơn mọi người, nhất
là chị tốt bụng. Đường về xa hơn 3 cây số… vì súc còn
yếu, anh em chúng tôi phải nghỉ cả chục lần và ì-ạch
mãi, cuối cùng cũng về tới “hậu –cứ”.
Hôm đó cu Minh (Thái) xin được một ít kẹo sữa, chị Thái
bảo cho hai cháu Thủy, Ngân một cục, nhìn hai cháu ăn
một cách ngon lành thích thú, nên vợ chồng tôi hỏi đường
đi đến chỗ đó để ngày hôm sau đến đó đề hành khất kẹo
sữa.!
Ngoài trời, gió vẫn thổi, gia đình chúng tôi co ro trong
góc nhà lá, nằm sát vào nhau… vả giấc ngủ đến thật mau.
Trong giấc ngủ mơ màng… những viên kẹo sữa thấm vào cơ
thể, ngây ngất và giấc ngủ ngon lành làm sao!!.
-
Anh Năm, dậy đi, trưa rồi
Tiếng gọi làm
tôi choàng tỉnh dậy.
-
ăn cơm đi, rồi vào làng xin kẹo.
-
Hôm nay em cũng đi nữa sao?.
-
Đi chứ, thấy anh đi hoài tội nghiệp anh quá,
không sao đâu, em muốn đi mà, cho em đi với.
-
Ừ, vậy thì cho các con ăn, rồi chúng ta cùng đi.
Thế là sau bữa ăn, gia-đình chúng tôi lại hành khất. Hôm
nay người có vẻ khòe hơn nhiều, hai cháu nhờ tắm nước
ngọt nên rạ thủy cũng biến mất và tỏ vẻ nhanh nhẹn hơn.
Thủy và Ngân dược Ba mẹ cõng nên khoái chí cười nói lung
tung, thấy con vui vẻ, cha mẹ nhìn nhau thông cảm và
hạnh-phúc tràn ra khóe mắt như thầm cám ơn Chúa. Mình
khổ cực hy sinh vì con, con cái được bình an là
tốt lắm rồi, cha mẹ thì sao cũng được.
Trên đường đi, chúng tôi thấy từng đoàn người kéo nhau
ra ruộng, đa số là người già, đàn bà và thiếu niên.
Không biết thanh niên ở đây đâu hết mà công việc đồng
áng lại giao cho Phái yếu!?. Đang suy nghĩ miên man thì
tới đầu làng, vợ chồng theo đường mòn đề tìm tới chỗ xin
kẹo. Tới nơi chúng tôi mới biết kẹo sữa là do người ta
nấu sữa lâu ngày là do trong lúc họ cầm trang để đẩy,
sữa tạt vào trong tường, tường đang nóng nên bốc hơi…
lâu ngày thành một lớp dày, họ cạy ra cho heo bò ăn,
nhưng chúng tôi xin nên họ cạy ra để cho chúng tôi. Ở
đây họ vắt sữa bẳng tay, cái thùng được họ để dưới bụng
con bò, hai tay nắm chặt núm vú con bò, kéo mạnh lên
xuống thật nhanh, cứ thế… họ làm với phong thái rất
chuyên nghiệp. Mỗi con bò họ vắt được khoảng hai ba lít.
Đem vào lò biến chế, thêm đường vào thật nhiều rồi nấu
bằng cách chưng cách-thủy. Nồi dài khoảng hai mét rộng
một mét, vì thế họ phải kéo đi kéo lại bằng cây trang
như đã nói ở trên, Chúng tôi đứng xem họ nấu sữa cả
tiếng đồng hồ nhưng chẳng ai dám mở miệng xin,
Page.26
vì không biết
cái đó là cái gì, sau đó đánh bạo chỉ đại vào tường, họ
hiểu ý và dẫn chúng tôi vào xem, thì ra hôm qua anh em
trong ghe đã cạy hết rồi, cạy tài tình đến nỗi không còn
chút nào dính lại trong tường. Nhìn mặt vợ chồng tôi lúc
này chắc buồn cười lắm!!!,chẳng còn được miếng nào, vợ
chồng tôi lại khăn gói ra đi, đi được vài trăm thước, vợ
tôi chợt reo lên như tìm thấy vàng.
-
Con heo tha cục kẹo lớn anh kìa.
-
Để anh.
Thế rồi tôi
đuổi theo con heo để dành lại cục kẹo của nó, con heo cứ
ngậm cục kẹo chạy hoài cho đến khi tôi đuổi kịp, đạp cho
nó một phát, nó há mồm kêu eng…éc, cục kẹo rớt ra, tôi
chụp lấy ngay, đem tới một cái giếng gần đó để rửa, rửa
tới rửa lui rồi lại ngâm vào loong nước chút xúi, lấy
ra, cứ thế vài lần. Thấy cục kẹo sạch sẽ ngon lành, vợ
chồng tôi đập ra thành miếng nhỏ cho con ăn. Cục kẹo to
gần bằng bàn tay, nên chúng tôi cũng ăn ké một chút của
con. Đang đi chợt thấy một con bò cũng đang ngậm một cục
kẹo, thế là một màn rượt đuổi lại diễn ra để dành cục
kẹo với con bò, nhưng lần này thì tôi bị thất bại!!! con
bò đã nuốt luôn cục kẹo vào trong bụng. chúng tôi nhìn
nhau cười mà trong bụng thì tiếc quá trời. Bàn nhau kiếm
lò sữa khác, lặn lội cả tiếng đồng hồ cuối cùng cũng
thấy một lò sữa khác, tiếc quá…phe ta cũng đã dọn sạch
rồi. Gia đình chúng tôi kéo nhau ra một cây gần đó ngồi
nghỉ. Một người đàn ông trạc độ 45-46 tuổi, ông ta mới
từ trên tỉnh xuống, hình như ông ta là chủ nhiệm lò sữa
ở đây, thật là hi hữu, ông này cũng biết nói tiếng Việt,
thì ra trước đây ông ta cũng từng ở Bắc VN bốn năm,
chúng tôi nhờ ông vào nói giùm đề cho chúng tôi ít sữa
cho các con, ông ta đồng ý vào trong và ít lâu sau, mấy
công nhân trong nhà máy bưng ra cho chúng tôi một nồi
sữa nấu với khoai-lang, họ bảo chúng tôi ăn, thế là
chúng tôi ăn một cách ngon lành, mấy người bạn chung ghe
cũng gần đó, chúng tôi kêu họ lại ăn… nhưng mấy người
công nhân không cho. Ăn xong, chúng tôi không có gì để
đựng, nên họ cho đem cả nồi về và dặn, ăn xong nhớ đem
trả lại nồi cho họ. đã thế họ còn cho chúng tôi thêm một
loong sữa đặc. Chúng tôi cám ơn rồi ra về. Người đàn ông
lúc nãy ra chỗ chúng tôi trò chuyện và đề nghị:
-
Anh chị có hai đứa nhỏ, mang đi cũng khó khăn,
tôi có vợ nhưng không có con, anh chị cho tôi đứa con
lớn, để nó ở đây…chúng tôi nuôi và bảo bọc nó như con
đẻ. Anh chị còn trẻ, qua bên đó được thì sanh nữa, đâu
có sợ gì.
Page.28
-
Xin lỗi, chúng tôi không thể làm như vậy được,
bằng mọi giá dù có chết chúng tôi cũng đem con chúng tôi
theo. Sống hay chết chúng tôi đã phó dâng cho Thượng-Đế.
-
Anh chị nghĩ xem, lỡ có mệnh hệ gì ngoài biển cả,
anh chị vẫn còn lại con bé.
-
Xin lỗi anh nhé, xin anh đừng nói nữa, chúng tôi
là kẻ làm cha mẹ, bổn phận chúng tôi là bảo vệ con cái,
dù có phải hy sinh tính mạng, chúng tôi cũng sẵn sàng,
mong ông thông cảm, tuy nhiên chúng tôi cũng cám ơn hảo
ý của ông.
Sau đó chúng tôi chia tay ông. Trên đường về chúng tôi
nói đủ thứ chuyện, vui có, buồn có, đặc biệt nói về
cha-me đôi bên, không biết ông nội, ông bà ngoại ra
sao?!! Chắc ông bà tưởng mình đã tới Phi-Luật-Tân rồi,
đâu ngờ rằng mình đang ăn mày ở đảo Hải-Nam này.
Hôm nay thứ sáu, chúng tôi qua nhà anh chị Thái trò
chuyện, sau một hồi hàn huyên… chị Ngôi nói:
-
Ở đây sao không có nước mắm hè.
-
Dạ, chắc người ở đảo này chỉ ăn muối.
-
Ước gì bây giờ có mắm mà ăn thì hay biết mấy.
-
Chị Ngôi, hay là chị cho cu Minh theo em vào làng
xem có mắm không?
-
Ừ, chú với em Minh đi đi.
Thế là chị Ngôi và vợ tôi đi kiếm những chai lọ trôi dạt
mé sông về rửa sạch, Tôi và cu Minh vào hỏi ông già bán
quán: mắm, tiếng Tầu là gì?, ông già chỉ cho, tôi và em
Minh học thuộc. Về tới quán, chị Ngôi và Phúc vợ tôi đã
kiếm giây cột đàu chai, thành một xâu 5-6 chai, anh em
mang lên vai và lên đường, trên dường đi cứ nhắc nhau,
mắm: tiếng tầu là gì, khi lội qua khỏi sông, chúng tôi
thấy họ đang đào khoai lang, anh em rủ nhau tới coi và
bàn với nhau, khi về sẽ ghé xin ít củ để ăn. Chúng tôi
tiếp tục vô làng .
-
Minh, mắm là chi rứa?
-
Chết cha, em cũng quên rồi.
-
Anh cũng quên luân rồi.
-
Giờ, mần răng anh Năm.
-
Anh cũng chịu, thôi thì mình cũng cứ đi, vừa đi
vừa nghĩ xem mình có nhớ ra không.
Hai anh em cứ
đi, đi sâu mãi vào trong làng mà vẫn chưa nhớ ra, mắm
nghĩa là gì.
-
Minh à, mình vào nhà này hỏi, họ có không?
Page.29
Vào tới nhà gõ cửa, người đàn bà thấy người An-nam liền
quay vào lấy gạo ra cho. Chúng tôi lắc đầu, chị lại lấy
khoai và dừa, chúng tôi cũng lắc đầu, vì những thứ này
chúng tôi đã có rồi. Đi thêm 5-7 căn nhà nữa…tình trạng
cũng như vậy. Họ thắc mắc…không biết chúng tôi muốn cái
gì. Tới một nhà khác, anh em chúng tôi chợt nghĩ ra, là
chỉ vào mấy cái chai lọ mang theo, rồi đi ra sau vườn để
tìm hũ đựng mắm, nếu không có, anh em chúng tôi nói “mậu
la” rồi bỏ ra đi. Tới nhà thứ tám thì thấy hai ba cái
lu, chúng tôi chạy tới rồi mở nắp ra, mừng rỡ chỉ tay
vào lu,
-
Đây rồi.
Rồi chỉ tay
vào mấy cái chai. Người chủ nhà hiểu ý bảo chúng tôi bỏ
mấy cái chai xuống. Tất cả mấy cái chai lớn nhỏ đều được
đổ đầy, anh em chúng tôi sung-sướng cám ơn rồi tươi cười
ra về. Tới Nhà, chị Ngôi và Phúc mừng ra mặt, hai bà đổ
ra coi thử, thấy mắm chưa chín, hai bà mượn nồi đem
chưng lên, lọc ra để lấy nước mắm mà ăn. Phúc chưng
xong, còn lại xác mắm, có người nào đó trong ghe đến xin
đem về chưng lại, Gia đình anh chị Thái-Ngôi và vợ chồng
chúng tôi là người duy nhất xin được mắm ở đảo Hải-Nam
này.
Chúng tôi ở đây cho đến ngày thứ tám, thì chính quyền
trên tỉnh mới cho người xuống, họ hứa là họ sẽ cho chúng
tôi thêm vài can dầu và ít lương thực. Họ sẽ chỉ đường
cho chúng tôi đi tới Hồng-Kông. Họ nói khi hết bão thì
chúng tôi phải đi ngay.
Chiều hôm đó, toàn ghe họp lại và có đề nghị đóng góp để
mua thêm dầu và lương thực, ai có vàng thì ứng ra trước,
tới Hong-Kong thì chia đều ra để trả lại. Tôi đề nghị:
-
Nếu đã đóng góp thì tính luôn vàng và đồng hồ
đã đóng góp ở Tây sa, chia đều ra, nếu ai còn thiếu sẽ
góp thêm.
Một số anh em trên ghe không đồng ý. Nhưng rồi cuộc họp
cũng kết thúc và kết quả như sau: nếu chú Năm không
đóng góp ở đây, khi qua tới Kong-Kong, chúng ta sẽ bán
ghe và chú Năm không có phần.
-
Được, các anh em muốn làm gì thì làm.
Nhưng cuối cùng cũng chẳng ai dám lòi vàng ra, cuộc họp
bất thành. Sáng hôm sau bảy tám anh em lội bộ lên tỉnh
để nhận dầu và lương thực. Đường dài tám cây số, nhưng
vì đường đi toàn là đồi và cát, chúng tôi phải đi đến
nửa ngày, thật vất vả mới lên tới tỉnh. Chúng tôi vào
chợ, thấy họ bán thịt heo và bò mà thấy thèm, họ còn bán
luôn cả những con chó đã thui xong vàng rươm, có những
đường nứt trắng toát, làm chúng tôi nghĩ tới nồi thịt
cầy của dân Nghệ-Tĩnh-Bình mà chảy nước miếng, thôi thì
ăn tưởng tượng vậy.
Page.30
Sau khi mang dầu về, chúng tôi được lệnh của chính
quyền, chỉ ba ngày nữa phải lên đường, chấm dứt 12 ngày
hành khất. Sau ngày thứ 12 chúng tôi kéo nhau xuống bãi
biển, ghe đã được chuẩn bị dầu và lương thực đầy đủ, ghe
đậu cách bờ khoảng 20 mét, vất vả lắm tôi mới đưa được
vợ con ra ghe, vì Phúc không biết bơi mà nước lại ngập
đầu nên rất khó khăn. Sau khi mọi người đã lên ghe,
chúng tôi khởi hành chung với chiếc ghe bạn.
Đi khoảng tới trưa, gió bắt đầu thổi mạnh, sóng lớn và
gió làm chiếc ghe bị lắc-lư mạnh. Anh Tư râu ra
lệnh cho ghe chạy vào một cái vịnh.
Lúc vào trong đó, nước lặng im như trong hồ, ghe chạy
xát vào chân núi, mọi người xuống ghe, leo lên núi chơi,
tìm dược một con suối nhỏ, vài người nằm xuống reo hò
đùa giỡn tự nhiên, bất kể những nguy hiểm ngoài vịnh
Kỳ-Phong đang chờ đón.
Một chiếc thuyền đánh cá Trung-Quốc cũng đang tránh bão
ở đây, họ cho chúng tôi biết là sóng gió sắp hết, nếu đi
Hong-Kong không phải tránh hướng khác, còn không ghe bị
chạy vào vùng nước xoáy, họ cũng chỉ hướng cho chúng tôi
đi. Cám ơn Chúa Mẹ đã khiến họ giúp chúng tôi thoát khỏi
hiểm nghèo. Anh Tư đã cho chạy theo hướng của chiếc tàu
đánh cá chỉ, và chạy hết hai đêm một ngày nữa, tới sáng
ngày thứ ba, chúng tôi thấy xa xa sáng rực, chạy thêm
hai tiếng đồng nữa thì thấy đèn, đèn giăng mắc như sao
đêm, chị Ngôi đề nghị ngừng lại để đọc kinh lần hạt, tạ
ơn Chúa Mẹ, sau đó chúng tôi tiếp tuc chạy đến Hong-kong
khoảng 8 giờ sáng, định chạy quanh một vòng để coi,
nhưng xui xẻo cho chúng tôi, chiếc ghe lại chạy ngay vào
xà-lan, chỗ mà họ đang giữ những người nhập cảnh bất hợp
pháp. Chúng tôi cũng bị cảnh-sát Hong-Kong dắt lên đó.
Tính từ khi rời VN cho đến hôm nay, thiếu 4 ngày nữa là
đúng hai tháng ( ngày 5 tháng sáu, đến 01 tháng tám).
Trên 100 người ở trên xà-lan, khoảng mười mấy chiếc ghe
của người Đà-Nẵng, Huế, Quảng-Nam, Quang-Ngãi, họ cũng
vượt biên tới đây. Vì chiếc ghe của chúng tôi lớn hơn
nên được cột xát vào xà lan để làm đầu cầu lên xuống
những chiếc ghe nhỏ, ghe nhiều lần bị đụng vào xà-lan
nên bị nứt ra… chúng tôi phải tát nước liên tục. đêm đó
tôi và anh Huệ đến phiên tát nước. Chúng tôi được biết
nếu ghe chìm, họ sẽ không cho vào đất liền, ai cũng phải
ở đây hai tuần để làm thủ tục, xong mới được vào.
-
Năm, dậy tát nước.
Tôi thức dậy, xuống ghe làm công tác, nhưng khi thấy
nước sắp ngập, tôi đành bó tay và vào ngủ, anh Huệ
vẫn tiếp tục tát nước.
Page.31
-
Năm, dậy tát nước, ghe sắp chìm rồi.
-
Kệ mẹ nó đi, bây giờ ghe chìm không răng mô,
mình ở trên xà-lan rồi còn sợ gì nữa.
-
Năm à chịu khó tát nước đi, ghe chìm, họ không
cho mình vào đất liền.
-
Sợ gì, tới đây còn sợ gì nữa anh, họ không cho
mình vào đất liền thì mình đi đâu?
Tờ mờ sáng hôm
sau, ghe chỉ còn thấy cái nóc của phòng máy, cảnh sát họ
chạy tới chạy lui, chụp hình chiếc ghe đang chìm vì họ
sợ bị mất bằng chứng, Hồng-kong sẽ phải cho chúng tôi tị
nạn, sau đó họ tập họp chúng tôi, cho xuống tầu lớn để
vào đất liền , “Kho-Đen” chỗ chứa hàng mấy trăm người
nhập cảnh bất hợp pháp đang chờ làm giấy tờ.
Nhất lý nhì
lì, liều mạng mà được việc.

Tối đó mưa lớn, nếu còn ngoài xà-lan thỉ chắc ướt như
chuột lột, cũng may là chúng tôi đã tới đất liền. nơi
đây kín cổng cao tường nên rất ấm cúng. Ngay khi vào
kho-đen, họ chỉ cho chúng tôi chỗ ở, phát quần áo và đồ
dùng cá nhân, sau đó dẫn tới phòng y-tế để diệt chí, họ
cho gội đầu bằng thuốc, thuốc có bọt như bọt xà phòng,
sau đó lấy khăn bịt kín lại… để như thế 3 tiếng đồng hồ
mới mở ra và đi tắm. Thuốc diệt chí thật tốt, mãi về sau
trứng chí cũng bị tiệt luôn. Sau đó họ cho chúng tôi về
nghỉ ngơi, và họ cho kêu người đi nhận cơm trưa.
Kho-đen là chỗ nhốt những người nhập cảnh bất hợp pháp,
đang chờ làm thủ-tục để giao nộp cho CAO-ỦY TỴ-NẠN, khi
được chấp nhận mới được ra khỏi trại. Trung bình, ai
cũng phải ở trong này khoảng hai tuần lễ, chúng tôi cũng
vậy. Họ chia thành từng toán theo số ghe, tới số ghe của
mình thì mọi người phải ra tập họp để Cảnh-sát nói
chuyện, ghe chúng tôi được mang số: “dất dất xam dị”( có
thề là nhất-nhất-tam-nhị) tức là 1132. Khi nghe tới số
ghe của mình, thì mọi người phải ra tập họp để nghe
cảnh-sát nói chuyện, Cảnh-sát ở đây dữ như bọn cai ngục,
họ có thể đánh chúng tôi bằng báng súng hay những cú đá
ác nghiệt mà không bị khiển trách, vì thế mọi người sống
ở đây luôn phập phồng lo sợ. Sau hai tuần lễ, ghe mang
số 1132 được lệnh chuẩn bị để ra trại tự-do. Trại mang
tên “ Cai-Tắc-Bắc. Hôm nay ngày mở đầu cho cuộc đời tỵ
nạn, cuộc đời lưu vong.!!!
“ Nhớ nước
đau lòng con Cuốc-Cuốc
Thương nhà
mỏi miệng cái gia gia”
(N.C.T.)
San Bernardino, CA.
Ngày 01 tháng 11 năm 1996
NGŨ-PHƯỚC
(Lê văn Năm 364)
______________________________________________________________________________________
Copyright by anloc471.com
2009. All Rights Reserved. Design Ngan Nguyen 323 |