Đă hơn 32 năm rồi kể từ mùa thu 1980, tiềm thức tôi không sao xóa
được cứ mỗi lần tôi đi du lịch trên những chiếc tàu (Cruise) thật
lớn nh́n biển nước bao la, là h́nh ảnh vượt biên sống lại trong
đầu. Nhớ từng chi tiết, từng địa danh, từng đoạn đường, nhớ từng
cơn sóng lớn đưa lên cao rồi đập xuống hăi hùng lẫn trong tiếng
kêu gào, van xin khấn nguyện. Có lúc đập thật mạnh làm nước tràn
vào gần ngập máy ghe, rồi mấy thằng em thay phiên tát nước, những
h́nh ảnh đó làm tôi không sao quên được. Mông lung tôi nh́n mây
đen lo sợ, đưa tay đo sức gió để đoán sóng cho tàu, mà quên rằng
tôi đang đi trên con tàu mới hiện đại chưa đầy 3 tuổi (Oasis of
the Sea). Lẩm cẩm nghĩ thật buồn cười cho đời người khi bước vào
thời kỳ của lứa tuổi 60 mươi. Nhưng có lẽ niềm suy tư lo lắng đó
đă thấm sâu trong tiềm thức và sẽ theo tôi cho đến ngày tháng cuối
cùng.
ooOoo
Giữa tháng 5-1980 tôi trở lại SaiGon, mới vỡ lẽ ḷng người chủ ghe
tham lam nên chuyến vượt biên thứ hai của tôi thất bại. Tôi bỏ
nghề vá bánh xe đạp, long nhong tối ngày hết thằng bạn này rồi
phóng tới thằng kia. Đuông và tôi gặp nhau rất thường, bữa nào anh
trúng mánh th́ 2 thằng no nê ăn uống. Có lúc đói quá ghé ngă sáu
Gia Long xin tiền thằng đàn em Lê viễn Hồng K4/72 tiêu xài đỡ vả.
Hồng cũng là mũ xanh trong binh chủng, khi ra trường về TĐ5 theo
tôi mấy tháng. Sau này chuyển qua Biệt Đội Sóng Thần lúc đơn vị
mới vừa thành lập. Thằng đàn em lúc này rất giỏi, chuyên môn mua
bán hải bàn, ngồi vài tiếng là tiền vô như nước. Tôi nhớ có lần
Hồng chở tôi đi giao cái hải bàn PCF, đặt chính giữa yên xe chỗ 2
thằng ngồi, chạy qua đoạn đường Phan Thanh Giản khi gần tới trường
Văn Học, bị nút chặn của một nhóm công an trước mặt. Tôi vừa nói
“ḅ vàng nó chặn”. Hồng nhanh mắt, lẹ chân chống xuống quay đầu xe
180 độ, rồi ngược chiều chạy trên lề bên trái, tiếng AK nổ ḍn về
phía chúng tôi. Như không để ư Hồng cứ phóng, trên chiếc Honda 65
màu đỏ, xoáy ṇng cylinder 90 phân khối chạy lạng qua, lạng lại
xen kẽ với đám thường dân đi bộ khiến công an ngần ngại không bắn
thẳng vào, tôi bảo nhỏ coi chừng bị bắn xâu táo, rồi hai thằng
cười ha hả.., cứ chạy t́m ngơ hẻm quẹo vô. Thấy được hẻm nhỏ hai
thẳng mừng hết lớn, chui xe chạy vào rồi ḷn ngơ khác đi ra. Giao
xong cái hải bàn hai thằng thở phào nhẹ nhơm.
Vắng đâu vài tuần, khoảng vào cuối tháng sáu 1980, tôi
không gặp Phan Văn Đuông nên chạy đến chỗ quán
bia hơi của em
Đuông để hỏi. Mới biết ra Đuông đă có mối đi vượt biên, cũng
bị bể
nên bị bắt giam đâu dưới khu vực Cần Thơ. Kể từ đó chúng tôi mất
liên lạc, trở về nhà bạn thằng em tôi tá túc. Gia đ́nh này là
gịng họ "Khúc” anh em họ hàng với bà “Khúc Thị Minh Thư”. Bác
rất hiểu hoàn cảnh nên bằng ḷng cho tôi ở tạm. Nhà có tiền nên
đưa vượt biên thoát được 2 đứa con. Sáu đứa c̣n lại, th́ chia hai
đi làm 2 đợt. Tôi nghe bà nói đă đóng tiền cho 3 đứa tiếp tục đi.
Lúc đó tôi định hỏi mượn tiền của Hồng đi tiếp, nhưng quá ngại v́
chuyến vượt biển vừa rồi đă mất trắng 2 cây vàng.
Ngày tháng trôi qua thật nhanh, đă tới lúc 3 thằng em trong nhà
khăn gói ra đi, lúc đó chừng đâu tháng 8-1980. Nh́n tụi nó tôi
thèm được đi cùng chuyến, em trai tôi cũng buồn v́ sắp mất đi
người bạn tốt. Nhưng tôi luôn cầu nguyện cho mấy thằng em đi được.
Sáng ra, 3 đứa lớn được bà mẹ dẫn đi về vùng
IV, được độ vài hôm
tôi thấy cả đám lại quay về.
- Bể nữa rồi hả Bác? tôi hỏi:
-
Không có nhưng coi như đă bể, tài công không tới và làm eo đ̣i
thêm 8 lượng vàng và tổng số 10 người.
- Sĩ Quan thuyền trưởng HQ hả Bác?
- Không, chỉ là HSQ Tr/sĩ Nhất nói là lái tàu rất giỏi. Rồi bà Bác
hỏi tôi:
- Vậy con lái ghe được không? Biết coi cái cục “hải bàn” ǵ đó
không? Nếu biết lái ghe Bác sẽ t́m mọi cách nói để cho con được
làm tài công trong kỳ đánh băi tới. Có thể bác sẽ nói con là HQ
vừa trốn trại.
- Tôi mừng quá, trả lời “dạ con lái được, hướng đi bác khỏi lo
con rành lắm.” Tôi nghĩ bụng ngày xưa tôi chấm điểm gọi Pháo Binh
bắn hàng ngày c̣n được, mà phải chấm đúng điểm, huống chi bây giờ
cả một bờ biển dài mà chấm không trúng th́ coi như... đi chết đi.
- Vậy, thôi được rồi ngày mai Bác đi sớm về Long
Xuyên gặp Ông Tám
nói về chuyến này cho cháu và đ̣i thêm cho cháu dẫn được 2 người.
Thấy đôi mắt tôi mừng muốn khóc, cảm động thương bà v́ bà dám giao
mạng sống ba đứa con ḿnh cho tôi, một tài công “dỏm”. Bác nói
tiếp, coi tôi như con ruột v́ cùng tuổi với đứa con đầu ḷng.
Đêm hôm đó tôi chẳng chợp mắt tí nào trên căn gác nhỏ phía sau nhà
của bác. Suy nghĩ măi rồi lo sợ ra ngoài gặp sóng lớn, mong trời
sáng để đi vào nhà Diệp phi Hùng t́m anh Sơn học hỏi tiếp. Tờ mờ
sáng tôi thấy bà đă dậy đón Honda ôm ra bến xe về Long Xuyên thật
sớm. C̣n tôi cả buổi sáng đó, anh Sơn nói tôi ôn lại hết những cái
anh dạy tôi từ đầu, từ phao nổi ngoài khơi cửa biển, đến những lá
cờ các nước tôi phải nhớ tên, rồi hướng đi theo kiểu chữ Z, bẻ góc
độ thế nào để cuối cùng ghe chạy theo hướng 270 độ, vào thẳng bờ
biển Thái Lan. Ngày hôm sau tôi buâng khuâng chờ bà về để biết kết
quả của chủ ghe đồng ư hay từ chối về những điều Bác đ̣i hỏi. Tới
chiều tối, nghe tiếng xe Honda ôm ngừng trước cửa,
bà bước vào
trong với vẻ mặt vui tươi.
- Chủ ghe bằng ḷng cho con làm tài công không Bác? tôi hỏi
- Nghe bác nói con là HQ mà trốn trại về t́m đường vượt biển là
ông Tám đổ băi và chủ ghe mừng hết lớn, v́ con đ̣i hỏi đi thêm chỉ
có 2 người, nên họ muốn gặp con vào thứ bảy tuần tới. Bác sẽ dẫn
con đi về Long Xuyên để cùng gặp mặt.
Tôi mừng quá ôm chầm lấy Bác, với thật nhiều lời lẽ cám ơn, không
diễn tả nổi lúc này trong ḷng tôi xúc động, làm sao tôi được cơ
hội như vầy, dẩu biết rằng đường vượt biển với trăm ngàn cái khó.
Suốt một tuần lễ chờ đợi ngày đêm dài đăng đẳng tôi ôn hết lại
những ǵ trong hiểu biết.
Tuần sau, sáng sớm Bác và tôi đón xe đ̣ về Long Xuyên để gặp ông
Tám, người đổ băi cũng là người quyết đinh ngày đi. Trên đường đi
tôi cũng phập pḥng lo sợ, nhưng tôi nghĩ là tôi sẽ làm được. Xe
ngừng ngoài lộ cách nhà ông tám, đường cong quẹo vào ngơ hẻm nhà
ông tám, khi vào rồi chưa chắc ǵ tôi biết lối ra. Gặp được ông
tám ḷng tôi bớt hồi hợp, nh́n ông tôi thấy người hiền ḥa phúc
hậu. Vừa nói chuyện, ông dẫn tôi vào trong buồng đưa tôi coi chiếc
hải bàn với tấm hải đồ ông đang giữ, sẽ giao cho tôi trong chuyến
đi này. Tấm hải đồ 1/100,000 của vùng bờ biển Hà Tiên và chiếc hải
bàn nhỏ bằng cái chén hiệu ǵ tôi quên mất. Nh́n tôi biết đây là
đồ loại giả, mới cầm lên cây kim Nam Bắc đă quay ḷng ṿng, bọt
nước đầy trong đó. Tôi bảo ông tám trao cho tôi đem về Saigon cho
bạn sửa lại, ông đồng ư với tôi. Hôm sau tôi và bác đem hải bàn về
Saigon sửa, xém một chút tôi bị bắt trên xe đ̣ v́ công an lên xe
lục soát.
Về tới Saigon, Hồng nh́n cái hải bàn cười ngất “Đă đồ dỏm rồi có
bọt nước hay không ǵ cũng giống nhau” Lúc đó tôi mới nghĩ đúng là
ḿnh ngu thiệt.
Vài hôm sau, Bác và tôi trở lại Long xuyên. Ông tám muốn thử tài,
cho tôi lái chiếc ghe nhỏ của ông, từ Long Xuyên qua núi sập đến
ngă ba Tham Lương rồi tới chợ Hà Tiên. Cầm tay lái ông chỉ đường
tôi đi ngọt xớt cũng may ghe ông Tám nhỏ hơn chiếc ghe tôi lái
trước kia nhiều, ông cũng chỉ rơ chỗ nào ông đổ băi, ghe lớn đậu
chỗ nào, rồi ông sẽ bốc khách ra sao. Ghé chợ Hà Tiên neo ghe rồi
đưa tôi lên núi. Tôi hỏi ông tám rằng ḿnh đi đâu lên núi Hà tiên.
- Ông trả lời “Xin xâm, cầu nguyện và cũng coi tuổi tôi có hợp với
chuyến đi này”.
Lên tới đỉnh tôi thấy một ngôi chùa nhỏ, vào bên trong có vài
tượng Phật Di Đà bên cánh trái là Quan Công Quan Đế, bên phải có
tượng Phật Bà. Tôi đốt nhang rồi qú khấn nguyện xin cho con đi
thoát khỏi chốn khổ này, tôi cũng lấy bó xâm đưa lên lắc, được it
lâu th́ có một cọng quẻ văng ra, tôi cầm lấy nó đưa cho ông tám
đem ra ngoài ông sư ngồi giải nghĩa. Tôi nghe nói tuổi tôi với quẻ
này là quá tốt. “Rồng gặp nước làm sao ngăn cản được”. Tôi thấy
nét mặt ông Tám vui thấy rơ. Trong lần trước anh tài công bóc nhầm
xâm hạ, quẻ giải ra thật xấu vô cùng. Ông vui vẻ bảo tôi thôi ḿnh
về đi cháu.
Xuống tới chợ Hà Tiên ông chỉ cửa biển ghe ra, và cho biết
giờ giới nghiêm là 9 giờ. Trong giờ giới nghiêm, tuyệt đối không
được một tiếng máy
nổ của bất cứ ghe nào. Chính giữa sông là rặng đáy giăng đầy. Bên này chợ
là hàng trăm ghe Quốc Doanh đánh cá, bên kia sông là vọng gác Công
an. Ông hỏi:
- Nếu theo cháu th́ ghe nên lái bên nào. Tôi quan sát kỷ rồi trả
lời cho ông Tám.
- Chính giữa sông không nên đi là tuyệt đối, rặng đáy giăng đày
không có lối ra. Bên này sông có hàng trăm cập mắt, bên kia sông vọng gác
công an th́ chỉ có một hai người. Vậy cháu chọn lái ghe chạy
về hướng đồn công an. Ông Tám ḍm tôi ngật đầu đồng ư. Cháu là tài
công th́ hoàn toàn quyết định nhưng phải lái tới đó trước giờ yên
tĩnh.
Bàn tính xong, Ông Tám và tôi ra ghe trở về ghé ngang ngă 3 Thâm
Lương gặp ông Hai để đinh ngày đổ băi. Cũng may ghe ông Hai vừa
tới đó một vài giờ. Nh́n chiếc ghe “Cà Dôm” vỏ ngoài độ chừng 10
mét, vào trong ghe tôi ḍm thấy máy biết ngay là máy xe hơi chế
biến, v́ trước kia tôi học kỹ thuật của trường Lục Quân. Trên
Saigon khách đi vượt biên thường hay hỏi “Yama Đầu bạc hay loại
máy Gray”. Thấy tôi suy tư ông Hai hỏi:
- Cậu có sợ lấy ghe sông đi
biển không?
Tôi trả lời: - “ghe nhỏ nào ra tới biển gặp sóng lớn cũng giống nhau
thôi, có ghe đi là con vui rồi bác ạ.
Ông Hai nói tiếp: - "Tôi là thợ máy, chiếc máy Mercedes đời 61 tôi
mới mua sửa lại chạy được hơn 6 tháng nay, chạy rất tốt, đồ phụ
tùng, đồ nghề tôi thủ sẵn đầy đủ cậu đừng lo". Bàn thảo một lúc,
rồi ông Tám nói tôi vừa xin xâm rất tốt. Ông Hai càng vui khi nghe
được tin này. Rồi ông gọi 2 thằng con đang tắm dưới sông lên nhổ
neo cho tôi chạy thử. Thằng lớn tên Lộc lên đề máy ghe, đạp “Ăm-bra-gia” rồi sang số. Tôi lui ghe chạy thử mấy ṿng. Lái ghe lớn
trước, giờ ghe nhỏ chạy thật dễ dàng, chỉ ngại rằng ngoài kia sóng
lớn. Nhưng tôi nghĩ con người có số, đời người ai không chết. Tôi
thoát bao nhiêu trận rồi giờ có chết cũng chẳng sao. Hơn nữa trước
kia giao mạng tôi cho người khác lái, c̣n giờ đây tôi quyết định
hoàn toàn, nên tin tưởng số tôi c̣n may mắn.
Kế hoạch Ông Tám và ông Hai bàn thảo xong định ngày cuối tháng,
30-10-1980, là đổ băi. Ông Tám và tôi từ giă ông Hai hẹn ngày tái
ngộ. Về tới Long Xuyên khoảng đô 8/9 giờ đêm. Ngủ một đêm nhà ông
tám, rồi hai Bác cháu tôi trở lại Saigon.
Suốt hai tuần lễ, tôi nhờ má vợ tôi liên lạc với người bạn đă cho
tôi vay nợ, để dẫn đứa cháu đi trừ nợ hai cây vàng. Khi biết ra
th́ đứa cháu kia đă vượt biên đang bị bắt. Cuối cùng khi tới ngày
đổ băi, tôi có một em trai cộng thêm thằng em thứ tư trong nhà tôi
đang ở.
Ngày đổ quân 6 anh em cùng trong nhà chia ra làm 3 cánh. Tôi đi
một ḿnh xuống Long Xuyên để đi cùng ông
Tám. C̣n lại 5 chia ra
hai cánh xuống Rạch Giá, để qua ngă ba Tham Lương đúng hẹn 5 giờ
chiều, th́ ông tám sẽ đón đưa ra ghe lớn. Tôi dặn ḍ kỹ lưỡng nếu
có đụng trận (bể băi) th́ hồn đứa nào nấy giữ, rồi t́m mọi cách
trở về nhà.
Tôi và ông Tám từ Long Xuyên ra tới ngă ba Thâm Lương gặp ghe ông
Hai tại điểm hẹn cách ngă 3 chừng vài trăm mét, thả tôi lên ghe
lúc khoảng 3 giờ chiều, rồi trở lại đón người đưa ra điểm bốc cách
chợ Hà Tiên chừng một hai cây số. Tôi ra ngoài ghe ngồi chờ 3
chiếc ghe nhỏ chay ngang qua, nếu đếm đủ số th́ tôi nhổ neo xuất
phát. Giây phút chờ đă qua 5 giờ hơn tôi thấy chiếc cá nhỏ (ghe
nhỏ) chạy tà tà qua chỗ tôi rồi đi thẳng, năm mười phút sau tới
con cá thứ hai rồi thứ ba liền sau đó. Tôi, ông Hai và hai thằng
con nhổ neo xuất phát. Đoạn đường từ ngă ba Thâm Lương ra Hà Tiên
tôi không nhớ rơ chừng bao nhiêu cây số. Ghe tôi lái chậm tà tà
chờ trời sụp tối để vừa đến chỗ bốc người.
Tới điểm hẹn đúng lúc trời vừa tối hẳn, tôi cặp bờ sông bên phải,
chỗ khúc hơi vắng nhà dân và ít ghe qua lại. Ghe vừa đậu lại, th́
từng chiếc một (cá nhỏ) cập sát đổ người, trong chốc lát đă gần
đầy ghe lớn, chiếc ghe đổ cuối là ghe ông
Tám. Tôi đếm đủ 5 thằng em
tôi trên đó. Như một trận chiến đổ quân, thật vô cùng hấp dẫn, tôi
thầm phục ông Tám đă dàn quân, bố trận như một kế hoạch hành quân
đổ lính rất an toàn. Chừng năm bảy phút, đám quân nằm gọn trong
ḷng con cá lớn. Cảm giác hồi hộp đầy thú vị này làm tôi nhớ lại
lúc ngoài chiến trận dẫn trung đội tiền đồn, cũng hồi hộp nhiều
lần bắn lộn thức trắng đêm. Tôi bắt tay ông
Tám cám ơn với vài lời
từ giă, và ông cũng dặn tôi cẩn thận khi ra tới cửa biển Hà tiên.
Cuối tháng mười, trời quá tối thêm nước ṛng chảy rút ra cửa biển,
theo kế hoạch th́ để ghe nổ máy nhỏ rồi chống trôi theo ḍng nước
rút, nhưng không ngờ nước rút quá nhanh. Ghe tôi lái dường như bị
mắc cạn trên lối đi vào cửa chợ Hà Tiên. Tôi vội vàng nhảy xuống
để đo chiều sâu ḍng nước, nước không lạnh mà mồ hôi làm tôi ướt
lạnh. Nước với bùn chưa qua khỏi gối tôi, trong đêm tối cùng 2
thằng con trai Ông Hai bước đi lội ngang lội dọc, kiếm t́m cho ra
chổ trũng hay mực nước sâu để đẩy ghe trườn về hướng đó.
Sấp 9 giờ
đêm là giờ cấm ghe qua lại, tôi khấn nguyện ơn trên giúp tôi thêm
lần nữa, rồi đi ngược về hướng sau ghe xéo góc 45 độ.
Đi tới một
đoạn bỗng tôi bị sụp vào chỗ hố nước sâu, mừng quá tôi đi ngược
lại rồi cùng hai thăng con ông Hai cố đẩy chiếc ghe đi vào chỗ
nước sâu tôi vừa chỉ. Cũng may ghe nhỏ, đáy ghe tṛn như hột vịt
nên dễ quay đầu xoay ṿng lại. Chúng tôi đẩy tiếp vài phút sau ghe
lọt vào vùng nước chảy. Mừng hết lớn, rồi ba thằng nhảy phóng trở
lên ghe. Lúc này chúng tôi cẩn thận hơn, tôi lái tiếp và bảo 2
thằng em lên phía trước lấy sào chống đo mực nước. Tôi để máy chạy
nhỏ tà tà theo ḍng nước rút kéo ra. Tới ngang chợ Hà Tiên tôi lái
qua bên trái để tránh sức nước đẩy ghe vào rặng đáy. Đến sát đồn
công an th́ máy ghe bổng nhiên ngưng chạy, tôi đoán biết chân vịt
bị kẹt kẽm gai giăng, trước khi nhảy xuống tôi nói nhỏ mấy thằng
em tôi chuẩn bị bung, nếu có tiếng súng từ đồn công an bắn tới.
Rồi tôi nhảy xuống nước lặn sâu ṃ t́m chân vịt, thấy nó bị vướng
vào những hàng dây kẽm gai, được kéo dài vào bờ giữ mấy cây trụ
chân rặng đáy. Tôi cố đè dây kẽm gai cho chân vịt lướt qua, vật lộn
vói kẽm gai đâu vài ba phút. Ghe trườn qua trôi tiếp ra ngoài. Hai
thằng nhỏ nắm tay tôi kéo lên cho lẹ, tôi ra lệnh không nổ máy
chống sào ra cửa biển, lúc chân vịt bị vướng kẽm gai tôi thấy vài
chiếc xuồng nhỏ với hai ba ngọn đèn dầu loe loét, nghĩ là dân đi gỡ
cá bị mắc câu, không để ư đến họ.
Nào ngờ đâu họ chèo ngược vào
trong báo cáo. Chúng tôi ráng dùng chèo bơi tránh xa vọng gác cao
của công an bên cánh trái. Ra tới cửa biển rộng mênh mông, theo
hải đồ th́ tôi biết khu vực này toàn là cồn cát, nếu mực nước này
so với trọng lượng ghe tôi nhỏ xíu th́ làm ǵ bị mắc cạn.
Nhưng
tôi có cảm tưởng như ghe không c̣n chạy, thật không sai.
Thằng Lộc
con ông hai chống sào đo nước, nó la lên:
- Anh Tám ơi lại mắc cạn nữa rồi.
Tôi thứ tám tên Khỏe mấy thằng
nhỏ hay trêu chọc gọi là “Anh Tám Khỏe” xin ly khai VC, tôi
chẳng hiểu câu truyện cải lương này đại ư ra sao, tôi cũng cười để
mấy thẳng em nó gọi. Tôi và thằng Lộc liền phóng nhanh xuống biển,
quả thật mức nước biển tới chừng đầu gối, tôi càng tránh xa đồn
công an biên pḥng cuối cùng bên cánh phải th́ vướng vào cồn cát
nổi ngoài khơi, nước sông rút ra biển quá nhanh chính ông
Hai cũng
không ngờ tới. À th́ ra đó là lư do công an không canh gác bên mé
cạn này, nhưng cũng may đầu mũi ghe chỉ mới vướng vào băi cát.
Thằng Lộc và tôi cố đẩy hông bên phải cho chiếc ghe vừa đủ nổi.
Bỗng bên trong chợ, khu ghe Quốc doanh đánh cá, có tiếng la inh ỏi
“Ghe vượt biên, vượt biên...” Vài ánh đèn pin rọi quạt qua, quạt lại
như kiếm t́m xem ghe chúng tôi ở nơi nào. Tiếng máy Yama đầu bạc
một block bắt đầu cành cạch nổ. Thằng Khoa bên trong ghe cũng đề
máy lên. Tôi và thằng Lộc kéo nhau nhảy lên ghe thật lẹ. Thằng
Khoa giao tay lái lại cho tôi, khi đă biết được cồn cát nằm bên
cánh trái, tay lái tôi bẽ về hướng đồn công an biên pḥng bên phải
chạy thẳng vào hướng đó, được một đoạn để tránh xa cồn cát rồi đổi
hướng chạy trở ra. Chiếc một block chạy đuổi bám theo sát nút.
Trên ghe ông Hai đọc kinh cầu nguyện cùng
với đám người bên dưới
hầm tàu.
Rồi vài loạt đạn AK bắt đầu bắn thẳng vào hướng ghe tôi đang chạy,
mấy thằng em hốt hoảng nhảy xuống hầm trốn hết. Với tôi đây là
chuyện nhỏ “nếu tài công HQ thứ thiệt gặp trận này tôi không rơ
họ sẽ phản ứng thế nào. Nhưng với loại HQ 4 chữ TQLC này th́ mấy
phát đạn bắn đó không nhát tôi được, cùng với kinh nghiệm vừa rồi của
chuyến thứ hai mà tôi bị bắt, tự hứa với ḷng bị bắn chết cũng
chẳng quay đầu. Trời th́ tối, khoảng cách cũng hơi xa độ chừng vài
trăm thước, tôi tỉnh bơ kêu thằng Khoa trả số 3, tống hết ga tôi
chạy thẳng hướng tây. Chiếc máy Mercedes thật quả “danh bất hư
truyền” lao ù ù trên mặt biển, ghe đi sông “Cà Dổm” giờ đang đối
đầu ghe đi biển. Gần nửa giờ mà tôi cũng thấy tụi công an bám đít
theo. Bất chợt tôi cảm thấy như có phép lạ
đang xảy ra, mặt biển mỗi lúc
càng nằm yên lặng như mặt nước sông, thêm một áng sương mù phủ lên
đường ghe tôi đang chạy. Tôi chợt nh́n qua phải thấy ống bô bên
hông ghe xịt lửa, à th́ ra tụi nó cố bám theo v́ lửa ống bô tàu.
Tôi kêu thằng Lộc chạy lên lấy vội tấm bao bố nhúng nước trùm lên
rồi múc nước biển tạt vào. Một hồi sau ghe công an gần như mất dấu.
Tiếng AK nổ vang vài lần nữa, nhưng lần này nghe xa lắc phía sau.
Mấy thằng em với tôi thở phào nhẹ nhơm.
Bớt ga lại trung b́nh rồi
chạy tiếp, chạy một đêm tới sáng 7/8 giờ th́ cái máy ghe bị trục
trặc, bốn máy c̣n lại ba, chiếc ghe bị sóng chạy không muốn nổi.
Nh́n bên trái thấy đảo Ḥn Khoai c̣n sờ sờ nằm cạnh. Lúc này ông
Hai cho biết máy bị bể một ống bét dầu, muốn ngừng lại sửa chữa hay
để như thế nầy chạy tiếp.
Rất may là tôi biết được sự vận hành của
máy, nếu để chạy thế này th́ không lâu cái máy hoàn toàn hết chạy.
Tôi ra lệnh cho thằng Khoa tắt máy để ông Hai t́m cách sửa ống
dầu. Chiếc ghe lênh đênh xập x́nh trôi trên biển bên cạnh Ḥn
Khoai. Sợ công an hay ghe đánh cá nhận diện là ghe sông.
Tôi ra
lệnh phá hết mui trên rồi lấy giây thừng buộc ṿng mấy trụ cột làm
chổ tựa để giữ người khi gặp sóng lớn hay mưa to. Mấy con cá chuồn
nhỏ thấy ghe sát mặt biển tha hồ đùa, bay phóng qua phóng lại.
Ông Hai cho tôi biết là bể chén chận bét ống dầu máy số một, mà
ống core đó ông không có mua dự trữ, nhưng hy vọng ông sẽ sửa được.
Cũng may máy không hư trong lúc công an đang rượt bắt, c̣n bây giờ
th́ sợ bị ghe quốc doanh đánh cá hay tàu tuần tiễu của công an.
Ông Hai ḷ ṃ mở sửa ông dầu chừng hơn một tiếng. Cả ghe quá mừng
khi máy ghe chạy trọn ṿng trở lại. Tôi vội vàng lấy hướng đảo Thổ
Châu trực chỉ, biển vẫn yên sóng nhịp nhàng tôi lái theo lời anh
Sơn đă dặn sóng chẻ 7/3 hoặc 6/4 chạy êm đềm.
Các đoàn cá heo cứ
đua nhau chạy bên hông ghe tôi đùa giỡn. Sóng vật một hồi, một số
khách trong boong tàu thấy quá mệt, tôi cho thay phiên lên trên boong hóng gió. Biển trời, quá rộng mênh mông toàn nước không thấy bóng
một chiếc ghe hay tàu nào qua lại. Ghe chạy gần tới tối mới thấy
gần ngang đảo Thổ Châu. Khi qua khỏi đảo tôi thấy năm bảy chiếc tàu
ngoài khơi đèn sáng rực. Cả tàu mọi người mừng vui chui ra coi
tưởng đâu là tàu buôn của Mỹ. Tôi lấy ống ḍm ra nh́n về hướng mấy
chiếc tàu, thấy toàn “BÚA, LƯỞI LIỀM” đặt trên nền màu đỏ cùng một
đám lính thủy thủ đoàn đi qua lại trên tàu, may thật nếu không
chết máy tôi chạy ngang đây lúc c̣n trời sáng là cả ghe toi mạng.
Đêm tối tôi chạy ḷn vào kẽ 2 chiếc tàu nằm chính giữa.
Vài giờ sau
ghe tôi qua khỏi mấy chiếc tàu lớn của Liên Xô, tôi biết chắc chạy
qua hết đêm là ra tới Hải Phận Quốc Tế, v́ đảo
Thổ Châu là ngọn
đảo cuối cùng. Trời th́ quá tối chiếc ghe tôi cứ tà tà lướt sóng,
cũng may cả đêm không mưa và không gió lớn nên sóng phập pḥng độ
khoảng cấp 2. Khi tới sáng nh́n nước đen mun như mực tôi biết rằng
đă thoát được nửa đường.
Nh́n trái phải tôi chỉ mấy thằng em những
kỳ Cá Mập rải rác trong vùng ghe đang chạy.
Hoảng hồn cố chạy
tránh xa nhưng làm sao tôi tránh khỏi khi đó là vùng cá mập, chỉ
cầu trời rồi cho ghe chạy lướt qua. Chạy tới trưa thấy nhiều lon
bia, coca nổi trôi lều bều trên mặt biển. Cả đám khách trên tàu la
reo vui Hải Phận Quốc Tế đă tới rồi. Ghe chạy suốt ngày tới chiều
tôi thấy đàng xa cuối chân biển một màu mây đen kịt, tôi định lại
điểm đứng thấy là ḿnh đang nằm trong hải phận của Thái Lan. Ông
Hai chủ ghe bảo tôi ráng tránh tàu Thai Lan v́ nổi danh hải tặc,
nên vừa thấy cột ghe Thái xuất hiện là tôi bẻ hướng tránh tối đa.
Cũng có lúc gặp Tàu buôn nhiều nước khác nhau như Thụy Điển, Ḥa
Lan, Singapore, chúng tôi làm dấu hiệu “SOS” hay đốt lửa khoát
tay cầu cứu, nhưng không tàu nào ngừng lại hay để ư nh́n.
Khi
c̣n ở nhà th́ nghe đài radio nói ghe vượt biên được tàu buôn vớt,
đem về Thụy Sĩ hoặc Ḥa Lan, mà khi chúng tôi tới đây th́ không
thấy con tàu nào tới cứu. Tôi cũng nghe nói có vài dàn khoan dầu
dọc theo hải phận Thái, tôi để ư hoài cũng chẳng thấy bóng dáng
nơi đâu có chăng là mây với nước.
Trời khuya dần, gió thổi mạnh tôi biết triệu chứng xấu, hơn 2 ngày
rồi tôi không chợp mắt một chút nào, cố lèo lái cho ghe lướt qua
những cơn sóng lớn, đít ghe bầu tṛn như ḷng trứng vịt, không thể
chẽ sóng nên tôi phải chiều theo sóng. Trời hừng sáng th́ gió to
sóng lớn, mây đen kéo đến cả một bầu trời đen nghịt, rồi những
cuộn sóng quá cao đẩy ghe lên cao rồi đạp xuống.
Tiếng khóc la của
một đám trẻ em, rồi đàn bà la hốt hoảng, ói mửa trong hầm tàu đầy
ngập mùi hôi thúi. Mọi người trong ghe gần như là xác chết, nhưng
cũng không ngớt lời cầu nguyện. Lớp người đạo
Chúa th́ đọc kinh
cầu Đức Mẹ, c̣n lại số kia th́ niệm Phật A Di Đà. C̣n tôi theo đạo
Phật, thờ Ông Bà, lớn lên học trường đạo, nên Phật Chúa ǵ tôi
cũng nguyện xin giúp đỡ, và dường như tôi luôn có người phù hộ.
Cứ
mỗi lần thập tử nhất sanh là mỗi lần ơn trên che chở. Tội nghiệp
thằng Khoa, thằng Lộc th́ phụ tôi kiềm tay lái, tôi cố gắng chỉ nó
nhớ đi sóng theo lời anh Sơn dặn 6/4 rồi tới 7/3, vật lộn với sóng
gần hai ba tiếng, nhiều lần ghe muốn bi lật ngang với những đợt
sóng dồn đập liên hồi. Quá mệt mỏi cùng những lo âu, sợ hăi v́ đối
đầu với sóng ngọn quá cao. Nếu những đợt sóng này liên tục vào lúc
ban đêm th́ ghe tôi ră đám, mọi người đă làm mồi cho cá mập
rồi. Như
một phép mầu, Chúa hay Phật đă nghe được lời khấn nguyện. Bỗng từ
xa xuất hiện hướng trước mặt một đốm trắng bên phải, tôi đoán là
tàu đánh cá Thái. Tôi báo ông hai biết để cùng nhau quyết định.
Lúc biển êm th́ bảo tôi phải chạy làm sao tránh tối đa tàu Thái,
lúc sóng vật một hồi th́ t́m tàu Thái che thân. Ông
Hai không suy
nghĩ bảo tôi chạy tới tàu xin cầu cứu, tôi đổi hướng lấy điểm trắng
ghe làm chuẩn rồi cho ghe ḿnh chạy tới. Khoảng một tiếng sau tôi
mới đến gần con tàu. Tôi hy vọng sẽ gặp tàu tuần duyên của Thái,
nào ngờ đâu ghe đánh cá Thái Lan, thấy ghe tôi chạy tới tàu Thái
ngừng lại chờ để kiếm ăn, trên tàu là một đoàn thủy thủ trẻ ở trần
mặc toàn quần “x́-líp” với thân người rắn chắc, đang chỉ chỏ vào
ghe tôi không cho cập sát, có lẽ tụi Thái sợ nếu đám tôi có súng
sẽ
nhảy lên cướp tàu. Nhưng sóng quá lớn đẩy mũi chiếc ghe tôi đập
vào bên hông tàu sắt Thái, nghe cái “RỐP” đầu mũi ghe
"cà dổm" găy
nát, hộc nước ngọt đằng mũi cho ghe chạy đầm khi bị sóng cũng bị
chảy hết ra ngoài. Tôi thấy tụi Thái ra dấu hiệu “quay vô lăng”
muốn biết ghe tôi ai là ngưởi lái. Cả đám người trên ghe chỉ thẳng
vào tôi, rồi tụi nó muốn đưa tôi qua bên đó nên kéo ghe tôi đến
sát hông tàu. Tôi vừa phóng người lên trên boong tàu Thái, th́ ghe
tôi bị thả trôi ra tuốt ng̣ai sau chừng 15 mét. Một thủy thủ Thái
móc cây dao mă tấu kê ngay vào cổ tôi, tay bên kia nó tước chiếc
đồng hồ tôi đang đeo trên tay trái. Tôi nghĩ lúc này nếu tôi phản
ưng chóng lại có lẽ đầu tôi ĺa cổ, và mọi người trên ghe tánh
mạng khó an toàn, có thể bị cướp bóc, hăm hiếp, đánh đập rồi đâm
bể tàu, hoặc nếu trên ghe có súng th́ t́nh h́nh trở nên đổi khác.
Xong nó đẩy thẳng tôi vào trong pḥng tên thuyền trưởng và đóng
xầm cửa lại. Trên ghe tôi, ông Hai cùng một số người la kêu cầu
cứu tôi bằng tiếng Việt.
-
Đừng giết nó, đừng giết nó, mấy ông Thái Lan ơi...
Mấy thằng thủy thủ Thái tụi nó chẳng hiểu ǵ khi nghe người trên
ghe la lên bằng tiếng Việt. Tôi bị đẩy vào trong pḥng lái cho
thuyền trưởng hỏi cung, tụi nó biết VN rất ít người biết tiếng
Thái nên dùng tiếng Anh để hỏi, tôi th́ quờ quạng c̣n thuyền
trưởng Thái cũng chẳng rành rồi hai thằng tôi cứ
ú ớ qua lại, tôi
thấy hai thằng Thái đen đứng ngoài cầm mă tấu dài nửa thước.
Thuyền trưởng Thái quát to “You VC, you VC?”
- No VC, no VC, I am Vietnamese.
Tôi trả lời
- You North VN?
- No, no South VN tôi trả lời.
-
You where? you where?
Rồi nó chỉ vào tấm Hải Đồ đang nằm trải thẳng trong pḥng lái, bên
trên là cái hải bàn to tướng. Nh́n thấy hải bàn của nó mặt kim chỉ
Nam, Bắc nhẹ nhàng từ từ di động mỗi khi có đợt sóng lớn đập vào
tàu. C̣n hải bàn trên ghe tôi th́ nó quay như chong chóng, ghe lắc
là kim quay một hồi mới nghỉ. Tôi hiểu ư nó hỏi nên vội lấy tay
chỉ vào nơi xuất phát cửa Hà Tiên và hướng Tây 270 độ tôi đi.
Nó thử tôi chỉ vào hải đồ cửa biển ngoài miền Bắc rồi chỉ vào tôi
xem phản ứng ra sao. Tôi cứ nhất định tôi ở miền Nam đưa tay chỉ
vào chỗ tôi vừa chỉ nó. Nói qua lại dùng hết “Miệng rồi Tay” tôi
mỏi mệt, nh́n lên trên góc trái thấy nó thờ h́nh tượng Phật, tôi
chỉ vào h́nh, rồi chỉ vào tôi, xong tôi chấp tay “lạy, xá xá”. Nó
nh́n tôi như hiểu ư tôi muốn nói ǵ, suy nghĩ một hồi, nó vẽ h́nh
2 chiếc ghe Lớn, Nhỏ, kéo móc nhau chạy thẳng vào bờ. Rồi nó ra
dấu hỏi tôi “tiền, đồng hồ, nhẫn, vàng, hột xoàn” tưởng tôi không
hiểu nó diển tả làm đủ cách. Rồi đưa giấy cho tôi viết mấy lời kêu
người trong ghe tôi đưa tiền, nữ trang cho nó. Tôi viết một đoạn
yêu cầu khách trên ghe hăy v́ sự sống nên đưa ra tiền, vàng, hột
xoàn nếu có, để được tụi Thái kéo vào bờ.
Vừa viết xong, thằng Thái đen lực lưởng bỏ thư tôi vào túi nylon
quấn lại rồi lao ḿnh xuống biển trong lúc sóng lớn nhồi đập ầm ầm.
Lúc đó chiếc ghe nhỏ của tôi neo ngoài sau bị sóng cao dồn dập
nhồi lên, nhồi xuống. Cả đám người nằm la liệt trên ghe chằng chịt
cột nhau bằng những cuồn dây bố v́ sợ sóng nhồi văng ra ngoài biển.
Chưa đầy một phút tôi thấy nó trèo lên ghe tôi đưa tấm giấy. Ông
Hai chủ ghe đọc lớn cho mọi người nghe lời kêu gọi, rồi ông lấy
bao nylon ḅ đến từng người gom góp cả ghe. Trong lúc ghe tôi đang
góp tiền th́ thằng thuyền trưởng cho áp tải tôi ra ngoài sau boong tàu chờ
đợi. Thằng Thái đen lấy cho tôi một bịch ḿ gói, đang đói bụng tôi
xé ra cắn, nhai nuốt ngon lành. Cọng ḿ thái lúc đó không hiểu sao
tôi thấy vị thơm ngon như chưa bao giờ ngon như thế. Một vài phút
sau tên thái đen bên ghe tôi bơi trở lại cắn trên miệng bị nylon
tiền, nhảy lên tàu nó giao cho thuyền trưởng.
Thoáng nh́n thấy
bịch nylon chứa tiền dầy cộm, cả đám thủy thủ Thái tưởng tiền “ĐÔ
LA” mừng vui ra mặt, khi đổ ra chỉ thấy h́nh “BÁC GIÀ RÂU” với một
số dây chuyền đồng hồ đa số toàn đồ giả. Tên thuyền trưởng giận
lên chưa từng thấy. Gom hết đóng tiền bỏ trở lại bịch nylon, đưa
cho thằng thủy thủ đem đi trả. Liền lúc đó nó đạp tôi văng xuống
biển, lấy mă tấu nó chặt đứt sợi dây neo. Ông Hai chủ ghe thấy tôi
bị đạp xuống biển, ra trước mũi ghe qú lạy bọn Thái trên tàu.
Sóng biển đánh lớn tôi nổi lên, rồi ch́m xuống, lặn hụp một hồi
tôi may quá nắm được sợi dây thừng, mấy thằng em trên ghe kéo rút
tôi vào đem lên ghe. Khi nghe giải thích că đám khách đi đều run
sợ. Nó sẽ đâm bể tàu, hoặc cho sóng biển đập một hồi cũng bể ghe,
chưa kể tụi nó bắt đàn bà con gái qua hăm hiếp.
Nghe tôi nói th́ vài ba cô
gái trẻ đẹp nằm như chết vội chui vào hầm lấy nhớt máy trét lên
đầy mặt mày và quần áo, nhưng tôi thấy cũng c̣n lộ nét trắng tươi.
Thấy nói có lư bà con bảo tôi kêu Thái Lan trở lại, tôi ra ngoài
mũi ghe đứng đưa tay ngoắc, c̣n ông
Hai th́ vẫn c̣n qú trước ghe
cầu nguyện. Ghe bị đánh trôi xa một đoạn,
chiếc tàu Thái từ từ
lùi lại tiến đến gần, một tên Thái cắn bị nylon lội quay trở lại
đưa cho tôi túi nylon để gom tiền. Tới lúc đó tôi thấy người Việt
Nam thật tội, tại v́ sao ra đến nỗi nầy. Người th́ moi tiền từ
trong gấu áo, kẻ xé quần lấy mấy chiếc nhẫn đưa ra, quần x́ líp,
áo xú cheng, tất că đều đem ra bỏ bịch, gom tổng cộng với tiền Đô La
chừng vài ba lượng vàng. Tôi cột lại đưa cho thằng Thái đen lội về
cho tên thuyền trưởng. Bọn nó đổ ra đếm, dường như là ăn đồng chia
đủ, rồi lấy dây neo thả cột ghe tôi vào chờ đêm xuống mới bắt đầu
kéo. Nó không dám kéo ban ngày sợ tàu tuần tiểu Thái Lan và Liên
Hiệp Quốc.
Lúc trên tàu Thái tôi hỏi vị tri của ghe tôi trên biển, nó chỉ rồi
ra dấu thêm một ngày nữa là ghe tôi sẽ tới bờ. Như vậy th́ tôi lái
ghe đi cũng gần chính xát, cũng thật không ngờ tôi là tài công 4
chữ TQLC cũng đưa được ghe ra tới chốn này. Chúng tôi nằm chịu
sóng nhồi hơn 6 tiếng từ hơn 10 giờ sáng đến gần 5 giờ
chiều. Biển lúc
chiều dịu lại, tàu Thái Lan bắt đầu nhổ neo chạy, kéo thêm ghe tôi
không nổ máy mà chân vịt quay ào ào. Chiếc cà dôm lướt như bay
trên mặt biển, rất nguy hiểm nếu gặp luồng sóng lớn.
Tôi lúc này
cứ phó cho số mệnh, để đám Thái lôi c̣n hy vọng được tới bờ, c̣n
không sóng lớn đánh một hồi th́ ghe ch́m liền. Trời ngoài biển bây
giờ tối đen như mực, tới gần 12 giờ đêm ghe tôi bị đứt dây kéo,
chúng tôi kêu la inh ỏi giữa đêm khuya, chắc máy tàu
Thái Lan nổ
lớn không nghe nó đành chạy tuốt, bỏ lại chúng tôi giữa đêm khuya
lững lờ nhấp nhô trên biển. Đang suy nghĩ t́m định lại hướng đi
th́ lúc đó nó quay tàu lại rọi đèn pha để t́m. Thấy đèn pha kiếm
chúng tôi la lên tiếp, đám Thái nghe la lái tàu chạy tới, nối cột
dây trở lại, lần này tàu kéo chậm lại có lẽ tụi nó biết chạy nhanh
quá dây thừng ghe tôi không chịụ nổi, và cũng không cho ghe tôi
nhảy sóng quá cao.
Tới khoảng 2 giờ sáng tôi thấy những giải đèn vàng mập mờ xuất
hiện, nó kéo thêm một đoạn xa khi nh́n thấy rơ hàng đèn. Rồi nó
ngừng lại kêu tôi ra chỉ hướng đó bảo ghe tôi chạy thẳng tới, thấy
c̣n xa nên tôi ra dấu là ghe hết chạy được rồi. Tên thuyền trưởng
ra dấu tay sẽ bị c̣ng khi police thấy. Xong nó thảy qua 2,3 thùng
ḿ gói, thấy ḷng nhân đạo nên vài người trên ghe tôi móc đưa thêm
cho nó một hai chỉ vàng. Rồi tàu nó nổ lớn máy phóng đi mất dạng.
Quá may mắn cho chúng tôi gặp bọn Thái lấy tiền nhưng người c̣n có
lương tâm làm điều không xấu.
Tôi bảo thằng Khoa, Thằng Lộc vào tát nước dưới chân máy, rồi đề
máy cho tôi lái chạy vào hàng đèn vàng trước mặt.
Lu bu một hồi
sóng đánh trôi ghe mất dấu khu vực có nhiều đèn, thấy tưởng gần
nhưng ghe tôi phải lái hơn một tiếng. Gần tới sáng khoảng 4 giờ
ghe tôi đụng gần bờ biển, tôi muốn thă neo cho ghe nằm ngoài góc
núi, khi tới sáng, quan sát rồi hăy chạy vào bờ. Ông
Hai bảo tôi
cứ kiếm chổ trống cho ghe tới bờ cho chắc, nghe lời ông
Hai tôi
chạy tiếp, thấy đàng trước có băi trống tôi xỉa mũi chui vào. Đùng
một cái đợt sóng lớn đánh chiếc ghe văng lên băi cát. Sợ ăn cướp
nên tôi kêu hết đám thanh niên trên ghe điếm được có mười mấy
thằng, c̣n bao nhiêu lại là con gái, đàn bà, con nít. Rồi cả đám
đẩy ghe trở xuống nước, lừa khi sóng đập vào tôi kéo số de, được
vài ba đợt chiếc ghe nổi chạy lùi ra xa băi cát, rồi tôi chạy ra
ngoài bên hông núi bỏ neo ngủ chờ trời sáng. Vừa chợp mắt khoảng
một tiếng đồng hồ th́ trời hừng sáng, dân trong làng Thái thấy ghe
lạ th́ họ biết chắc là ghe của VN. Bốn, năm chiếc xuồng nhỏ chèo
phóng ra ăn cướp, thấy cầm dao tôi bảo thằng Lộc chặt bỏ neo,
thằng Khoa đề máy sang số de xong tôi chạy tuốt ra ngoài khơi.
Chạy tới chạy lui dọc bờ biển t́m chổ đông người nhưng không thấy
chổ nào là đông đúc, mấy chiếc ghe con canh ghe tôi từng chút. Gần
9 giờ sáng tôi chạy ṿng lại nơi khoảng trống mà lúc khuya ghe tôi
bị sóng đánh văng lên cát. Chợt thấy một số người dường như không
là dân Thái thêm mấy chiếc buồm xanh, đỏ đang kéo ra. Tôi lấy ống
ḍm nh́n thật kỹ, đúng là dân du khách nước ngoài. Tôi lấy lái
chạy thẳng vào trong băi, cả đám Tây hốt hoảng chạy lên bờ, tôi
thấy vậy quẹo ghe qua bên trái cách xa chỗ băi tắm chừng gần 100
mét. Rồi la lệnh tất cả bỏ ghe nhảy xuống biển lội lên bờ.
Một đám dân cướp cạn, xỉa dao lấy đồng hồ, ṃ khám xét rồi nhào
lên ghe lục soát tứ tung. Thấy Ông Hai ôm cái hộp vuông không nhỏ,
tụi Thái dựt lấy và mở ra thấy vài cục đất KHÔ, và nó tưởng ông
giấu hột xoàn nằm trong đó, đưa vào miệng cắn nát mấy cục đất đen.
Đất bể nát tụi nó không thấy ǵ trong đó, tức giận cứng người nó
quăng luôn cái hộp xuống biển một cái đùng, tôi hỏi ông hai có cái
ǵ trong đó, ông trả lời:
- Mấy cục đất sét VN tao đem theo và cầu nguyện khi tới nơi tao
cúng rồi quăng trở lại biển cho quê hương ḿnh. Giờ th́ tụi nó cắn
nát cũng kể như tao đă cúng.
Lục xét xong, đám Thái ăn cướp lấy ghe ông Hai phóng chạy mất khi
thấy mấy người du khách ngoại quốc tới. Không có người Mỹ, toàn là
Tây. Trong số đó có một người Tây bảo chúng tôi cho biết bao nhiêu
người, để ông đi bộ ra đồn cảnh sát báo. Lúc này tôi mới biết được
ghe tôi tổng số có 34 người đi trên chiếc ghe chà Dôm 10 mét trải
qua cuộc hành trinh dài 3 ngày 4 đêm từ cửa Hà Tiên VN đến đảo Sa
Mui, Thái Lan ngày 3-11-1980.
Vài tiếng sau cảnh sát tới nơi dẫn bộ chúng tôi về đồn, sau 3 tuần
lưu lại nơi đảo “SA MUI” chúng tôi được đưa về trai ti nạn
“Songkhla” Thái Lan ngày 25-11-1980.
Tôi biết chắc ḿnh đă sống và đến bờ tự do. Một buổi chiều, lang
thang trên bờ biển Songklha, ḷng tôi chạnh nhớ quê nhà, rồi ghi vội
vài ḍng thư cho bạn ḿnh vào trong nhật kư.
Nhiều lúc tôi đứng trên bờ biển Thái,
Hướng nh́n về bên kia vùng bờ biển nướcViệt Nam.
Thương cho những bạn tù của tôi đang c̣n vác cuốc.
Ngày như đêm không biết được tương lai.
Tôi thật may mắn đứng bên nay vùng đất tạm.
Rồi mai đây tôi sẽ đến được nước thứ ba.
Tôi mong
các bạn
được
một
ngày sớm
thả.
T́m đến
nơi
đây hít thở
không khí tự
do.
Được sống tạm ở trại Songkhla một thởi gian gần ba tháng, thủ tục
giấy tờ xong tôi được chuyển đến trại Galang, Indonesia. Rồi đến
Mỹ ngày 4 tháng 8, 1981 theo diện Sponsor chùa tới vùng Long Beach
rồi San Jose là nơi tôi tá túc đến hôm nay.
Hơn 32 năm kể từ khi tôi thoát khỏi cảnh lao tù
CS. - Giờ đây ngồi
ôn lại những ǵ c̣n trong kư ức. - Thương cho những bạn tôi đă chết
nơi lao tù, hay chiến trường khi c̣n quá trẻ. Tuổi ngây thơ trong
đất nước chiến tranh. Tôi được may mắn cũng nhờ ơn trên phù hộ,
thoát qua khỏi nhiều lần gian nguy, hiểm trở:
Vượt trại lao tù,
trốn vượt biên và may mắn trong lần vượt biển. Rồi tới đất Mỹ với
hai bàn tay trắng, tưởng rằng đâu tôi chỉ biết có “Bóp C̣”... Đă trải
qua rất nhiều năm cực khổ: Cắt cỏ, bỏ báo, hái dâu và đồng thời đi
học vài ba năm tôi làm được job
technician. Thấy thích thú tôi ḷ
ṃ học tiếp cuối cùng th́ tôi cũng làm được kỹ sư trong nghành
Networking.
Cám ơn nước Mỹ thật nhiều đă cho tôi cơ hội, nên đă
đền đáp được những tấm chân t́nh của hầu hết những ân nhân, gia
đ́nh và bạn bè đă giúp đỡ tôi trong hoàn cảnh khốn cùng. Cám ơn bà
mẹ nuôi “Phan Thi Hồng Hoa” đă cho tôi chỗ ở, cơ hội cùng tất că
mấy đứa em: Phục, Phú, Phong, Phấn đă che giấu và giúp đỡ tôi
trong lúc trốn tránh lao tù. Tôi không gặp lại ông Hai kể từ khi
qua Mỹ, nếu giờ này c̣n sống ông đă quá 90. Đă hơn 30 năm nhận nơi
đây làm quê hương thứ hai để sống, giờ đây hai đứa con tôi đă ra
trường và đi làm việc. Tôi dự tính sẽ về hưu sớm trong ṿng hai
năm tới. Một lần nửa cám ơn tất că bạn bè, ân nhân đă giúp đỡ và
cho tôi cơ hội. Once again “THANK YOU AMERICA.”
- Khỏe Trần (60) Engineer, - Nghiêm Trương (59) Prudential
Insurance Agent, Retired 2009
- Thiện Lê (40) Engineer, - Dana N.Trần
(36) Attorney at Law, - Athyna Lê &Taylor Lê (7) Second grade.
- John Trần (28) Engineer
oOOOo
Sau đây là một vài h́nh ảnh chiếc ghe của vợ con tôi đi vượt biên
vào tháng 8-1978. Lênh đênh trên biển 14 ngày, hết nhiên liệu do
một HQ Tr/Úy lái từ Cần Thơ đi Mă Lai.
Cũng may trong lúc tuyệt
vọng được tàu của Hải Quân Hoa Kỳ đi công tác thấy được, ngừng lại
tiếp tế nhiên liệu, chỉ dẫn hướng đi.
C̣n tấm h́nh sau này được một quân nhân
HQ Mỹ gởi tặng.