HOME             Hồi Kư Thơ Nhạc          Lao Tù và Vượt Ngục       Hành Tŕnh T́m Tự Do

 

 

      LAO TÙ và VƯỢT BIỂN                                                                                               

MX Trần Văn Khỏe

Sài G̣n những năm cuối thập niên 70, nhà nhà vượt biển, người người t́m đường vượt biên. Người Sài G̣n những năm đó có câu “Cây cột đèn có chưn nó cũng đă đi rồi.” Đường biển th́ đi bằng tàu, đường bộ th́ vượt biên giới qua Cămbốt, Lào để đến Thái Lan. Những câu chuyện vượt biên vượt biển được truyền nhau bí mật, truyền cho nhau kinh nghiệm trong chỗ bạn bè, thân nhân ruột thịt. Nhưng cũng có những câu chuyện thương tâm bị cướp biển Thái Lan hảm hiếp, bắt về bán cho các động măi dâm ở Thái. Năm 1979 có những chuyến đi “bán chánh thức”, người Hoa bị xua đuổi về Tàu. Người ta đóng ghe công khai, có những nguời dắt mối, mỗi đầu người 9 cây…những từ ngữ trở thành quen thuộc “Yanma Đầu Bạc” “ba lốc, bốn lốc” (block). Rạch Chanh ở Long An là một trong nhiều chỗ đóng ghe đi bán chánh thức. Có người bị gạt, cũng có người đi được, cũng có những chuyến bị “bán” và bể khi ra khỏi cửa sông làm mồi cho cá. Một dạo, có một chuyến đi bán chánh thức từ BiênḤa, đến khi vào sông Ḷng Tảo bị bể tàu và người chết, xác nổi lên tấp vào bến phà Cát Lái, Nhơn Trạch, người ta đi vớt xác cũng có, mà người ta đi vớt của cũng không thiếu. SàiG̣n vượt  biên…những câu chuyện vượt biên không kém phần hấp dẫn như tiểu thuyết.

 

ooOoo

 

Trốn tù ra trong những ngày cuối tháng sáu 1979. Đă hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài, tinh thần tôi khủng hoảng và sợ sệt, tôi về tịnh dưỡng dưới quê nhà anh rể tôi vùng Rạch Kiến. Được vài tháng quen cách sống b́nh dân, tôi trở lên lại Saigon liên lạc được một số bạn bè cũ, biết được Phan văn Đuông thằng bạn cùng khóa chung TD5/TQLC, cũng lỳ đ̣n trốn trại tù như tôi nên t́m nhau để dựa lưng vào nhau, có t́nh đồng đội th́ dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong ḷng địch th́ chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.

Len lỏi sống qua ngày, Đuông thi bơm hộp quẹt ga chợ Sai G̣n, tôi vá bánh xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng, kiếm ăn, đồng thời nghe ngóng tin tức để t́m đường vượt biển.

Vài tháng sau, gặp được Nguyễn văn Phải cũng khóa 4/71 bên Binh Chủng Nhảy Dù được VC thả về trước ba năm, bà me già về quê để lại căn nhà nhỏ bên hông trường “Đại Học Sư Phạm”, thấy bạn bè không nơi nương tựa, Phải kéo một đám về cho tá túc hằng đêm, sau này có thêm Sơn, Lâm BĐQ tất cả độ khoảng trên dưới năm bảy thằng toàn là SQ trong 3 binh chủng TQLC,ND,BQĐ.

       Ban ngày tủa ra đường kiếm ăn, đêm th́ ghé lưng được vài ba tiếng, chúng tôi thường giành nhau chỗ ngủ trên gác gần máng xối, để khi đêm về có động tỉnh th́ hồn ai nấy giữ, trổ máng xối chui ra mà chạy.

       Tháng ngày trôi qua, ngoài cái đói và phập pḥng lo sợ hàng đêm, những thằng trốn tù như tôi và Đuông phải nổ lực ráo riết t́m đường vượt biển.

        Nghe Phải nói về tổ chức vượt biên của anh Sáu (Khoái Th/tá ND). Đuông và tôi th́ trên răng  dưới vế t́m đâu ra một, hai cây vàng mà đi? Nhưng tôi cũng bậm gan nhờ Phải  hỏi dùm "đi trước trả sau” may ra th́ anh Sáu đồng ư. Vài tuần sau, nghe được trả lời, c̣n một chỗ cho tôi đi trong chuyến “Chín Thu”

       Tôi không biết mặt anh Sáu nhưng tôi thằm phục môt vị đàn anh, cảm thông và giúp đỡ đàn em trong cảnh khốn cùng, như một tia sáng vươn lên ḥa lẫn trong niềm hy vong. Vài hôm sau, ngày đổ băi đă đến, tôi được anh Hai Nhất  tới dẫn đi về Vĩnh Long. Trên xe đ̣, tôi ṭ ṃ hỏi:

        - "Hai Nhất có phải tên thật của anh không? Và “Chín Thu” là ai? Mấy anh gọi nhau bằng ám danh tôi không hiểu ra tên ai hết".

        - Tôi là HSQ đàn em của anh Sáu, tôi thường hay đi trước nên mệnh danh Hai Nhất.

        Tôi hỏi tiếp, như vậy c̣n Chín Thu, anh hai Nhất tră lời:

        - Chín Thu là anh Th/tá Mai B.T, chồng cũ ca sĩ K. L, hiện anh đang giữ con "cá Lớn", là bạn thân của anh Sáu, yên chí đi.

       Tôi thầm nghỉ số tôi quá ư là may mắn, tên Mai B.T vang bóng một thời nổi tiếng dân chơi của Biệt Đoàn…, nay được anh tới đón là điều không thể tưởng.

        Tới Vĩnh Long đă chiều, anh Hai Nhất và tôi ăn vội dĩa cơm lót dạ, rồi đón xe lôi chạy thẳng về điểm hẹn... Tôi không c̣n nhớ rơ nơi nào, một căn nhà nhỏ độ vài mươi mét vuông, cạnh bờ rạch nhỏ , vào bên trong nhà, tôi ngă lưng trên chiếc vơng sau nhà. Anh hai Nhất đi t́m người liên lac. Giờ phút  đến theo dự trù khoảng độ 10 giờ đêm, tôi hồi họp chờ đợi, rồi 11 giờ  tôi thấy anh hai Nhất  lầm lũi trở về trong bực tức anh chửi thề “ ĐM.. thằng Chín Thu chỉ rướt đám Ca sĩ Ngọc M.., bỏ lại bên cánh ḿnh ” Ḷng buồn vô hạn, nhưng cũng an ủi ,v́ đâu đă mất tiền, có lẽ đây là cách chơi của bậc đàn anh... Trong khoảng gần cuối năm 1979, chuyến vượt biên đầu coi như hoàn toàn thất bại, tôi lểu thểu trở lại Saigon .

        Thời điểm bấy giờ, vượt biên, vượt biển là đề tài chính. Lường gạc, lừa đảo lẫn nhau là chuyện b́nh thường. Vợ tôi khi tới Úc cũng cực khổ, cố gắng làm gởi tiên về gia đ́nh nhưng chỉ đủ cho thằng em trai tuổi nghĩa vụ đóng tiền vượt biển.  

        Đầu năm 1980, tôi t́nh cờ gặp anh Phan thành Nam trước kia anh là Đ/úy trưởng pḥng truyền tin Phủ Tổng Thống ở chung trại tù lúc c̣n ở Trảng Lớn, anh bây giờ đồng cảnh ngộ như tôi, nhưng anh may mắn hơn có được Chị Thu người vợ rất lanh lẹ và quán xuyến công việc mọi đàng.

        Anh Nam cho biết đă đóng tiền một chỗ đi rất tin tưởng,chiếc ghe đang kéo lên ụ tàu Cầu Rạch Ong sửa chữa, sẽ được xuống nước trong thời gian ngắn. Làm cách nào tôi đào ra 2 cây vàng để đưa cho chủ ghe để được có phần trong chuyến đi cùng anh Nam sắm tới. 

Tôi liên lạc với má vợ tôi thường xuyên, bà rất thương tôi, chạy ḷng ṿng vài chỗ hỏi mượn cho tôi đến khi vợ tôi gởi tiền về th́ hoàn tră lại, cũng may có người bạn cùng xóm của vợ tôi cho mượn.

Được 2 cây vàng ḷng mừng không diễn tả được, nhưng bấy giờ lại sợ bị mất tiền. Tôi đ̣i hỏi thấy chiếc tàu đồng thời được làm thủy thủ. Người chủ tàu đồng ư lời tôi. Khi đưa xong vàng, đi sâu vào nội bộ th́ biết ra có 2 phe cánh đang giành giựt nhau làm chủ, một bên chủ máy và một nửa của chủ vỏ ghe.

       Cuối cùng bên bỏ tiền mua máy tàu làm chủ, v́ chủ vỏ ghe đă lấy quá nhiếu vàng. Tôi và anh Nam cũng may được hai bên đồng ư cho làm thủy thủ đoàn v́ họ đang cần người chăm sóc chiếc ghe. Với tôi thêm một  chỗ ngủ mới cho tôi thay đổi, trong thời gian di động. Tôi thường phụ thợ máy mỗi khi làm hộp số. Khi rảnh rổi th́ tới nhà Diệp Phi Hùng t́m anh Sơn để học hỏi lư thuyết về cách lái ghe, khi gặp sóng biển lớn, và những kư hiệu phao nỗi ngoài cửa biển. Anh Sơn chỉ vẽ rất tân t́nh v́ trước kia anh là dân lái gian thuyền PCF, anh Sơn luôn căn dặn:

         -  Nhớ lúc nào cũng đi sóng 6/4 hay 7/3, không bao giờ chẽ sóng 5/5 

Những danh từ thường dùng cho dân HQ, tôi chưa bao giờ nghe, rồi anh giải thích.

- Sóng 6/4 là mũi ghe và sóng biển với góc 60 độ và 40 độ, 7/3 là 70 và 30 độ, c̣n 5/5 là Sóng biển và mũi ghe góc vuông 90 độ, phải nên tránh trường hợp này.

         Tôi cẩn thân ghi chép từng đoạn, vẽ h́nh từng loại phao đặt ngoài cửa biển. Trước đây khi c̣n trong tù, tôi cũng học hỏi sơ qua của mấy thằng bạn Hải Quân chung trại nhưng có bao giờ nghĩ tới có dịp thực hiện bao giờ.

         Khoảng tháng 3 năm 1980 chiếc ghe hạ thủy, với 14m dài,  gần 3 m chiều ngang, vỏ nghe đi sông biến thành ghe biển.  Lúc đang chờ hợp đồng tôi và anh Nam lấy ghe chạy thử, lái th́ dễ nhưng cập bến là vấn đề khó khăn, hơn nữa tôi nghỉ đâu phải là trách nhiệm của tôi. Vài tuần sau, khi có giấy phép hợp đồng chở cát về xă Lư Nhơn thuộc Quận Nhà Bè, cũng là dịp để thử chiếc ghe, th́ đám tài công chính xuất hiện, một Th/Sĩ HQ làm tài công chính, một Ch /úy và hai người khác tôi không nhớ rơ, tất cả đều là phe ta Quân đội cũ, có lẽ ngoài tài công ra, đoàn thủy thủ này toàn bộ Amateur như tôi và anh Nam.

         Sau ba chuyến đi hợp đồng coi như suông sẻ, qua sông Nhà Bè rồi tới xă Lư nhơn.  Kế hoach bàn thảo sẽ đổ quân vào chuyến thứ tư với hợp đồng nước đá Huyện Cần Giờ, nhưng khi ra cửa sông lớn lái gần bên phải bốc quân bên Vàm Láng.

         Vào cuối tháng Tư, theo dự trù sẽ tất cả chờ trên cá nhỏ (ghe nhỏ), sẳn sàng ngoài cửa sông Vàm Láng, chờ khi trời sụp tối cá lớn (ghe lớn) đến bốc rồi thẳng ra cửa biển trong đêm. Mỗi nhóm một phận sự trên bờ ông chủ ghe điều động bốc người, phần chúng tôi là làm thế nào để đưa ghe lớn “cá lớn”  tới điểm hẹn an toàn và bốc người đầy đủ.

         Ghe rời ụ xuất phát khoảng lúc 8 giờ sáng, chạy sang cầu chử Y rước bà chủ ghe, lúc chờ đợi tôi lội xuống kiểm soát chân vịt lần cuối. Ghe bắt đầu rời bến, lúc đi hợp đồng th́ không ǵ lo sợ, không hiểu lúc này sao lại run chân, chạy ra khỏi vùng sông Saigon, rồi khu vực Nhà Bè xuyên qua những con rạch nhỏ, lúc này tôi không c̣n đinh hướng được v́ qua các khúc rạch quằn quèo. Tôi vào cabin nh́n qua tấm hải đồ định hướng. Anh Th/sĩ tài công chỉ vào Hải đồ tôi thấy đă hơn nửa đoạn đường, chúng tôi cho ghe chậm lại lúc đó độ hơn 1 giờ trưa, ḷn lách trong những con rạch nhỏ  solo một ḿnh. Tôi không hiếu tại sao anh tài công lại đi đường tắc này rất dễ dàng lộ diện. Nếu là tôi lái th́ sẽ đi con đường chính diện, cũng may là không ai phát giác, tà tà chạy tới, con sông bắt đầu rộng dần, rồi tới rộng lớn mênh mong anh tài công lái ra chính giữa, nh́n qua hai bên bờ quá xa, cả đoàn thủy thủ trên ghe mừng hớn hở, hy vọng đă vươn cao, gần tới chỗ bốc người, trời cũng xế chiều.

         Bỗng nhiên hàng loạt AK50 bắn ṛn ră vào hướng ghe chúng tôi đang chạy. Biết bị lộ, trên ghe cả đám mất tinh thần, lúc này tôi như ra lệnh cứ tiếp tục chạy như không nghe biết ǵ, anh Th/Sĩ cũng nghe theo chạy thẳng qua hướng về Vàm Láng. Tiếng AK50 nổ ḍn và giữ dội hơn kèm theo M79, nổ ầm ầm trước sau con tàu. Bà chủ ghe quá sợ, kêu gọi chúng tôi quay vào, c̣n lây quây suy nghỉ th́ 2,3 trái M79 nổ ầm, ầm sát bên ghe. Anh tài công hốt hoảng quay mũi tàu hướng về phía Công An.  Rồi nghe tiếng AK bắt đầu bớt lại, khi thấy ghe chúng tôi hướng thẳng vào bờ.

         Cửa biển quá rộng mà tôi lại lội không rành, làm sao tôi dám nhảy sông, nghĩ bụng đợt này ḿnh chết chắc, bao nhiêu lần may đều thoát nạn giờ th́ đă hết vận may. Có thể  trong đoàn thủy thủ tôi là người tội nặng nhất, trốn tù, giấy tờ giả, thêm tội vượt biên. Cả đoàn thủy thủ mỗi người ngồi một góc, có thể họ cũng đang t́m lời đối đáp với bọn công an.

         Chiếc ghe từ từ lũi vào chỗ cạn, một đám công an lội śnh cầm súng nhảy lên ghe, trói tay tất cả, bắt lội śnh vào trong xă, rồi quỳ một hàng như những tội phạm đang đợi giờ xử bắn.

         Bà chủ ghe cũng bi đưa vào trong đó hỏi cung, và tŕnh giấy hợp đồng bà đang giử.

         Tên công an xă quát lên:

         - Hợp đồng buôn nước đá này là giả, hợp đồng vượt biên th́ đúng hơn.

Bà chủ ghe cũng căi lại:

- Trên ghe không bằng chứng vượt biên

Tên công an cười mĩm rồi nói tiếp:

- Bà có biết ai tên là Nguyễn Thị Quí không? chủ máy của chiếc ghe này, chính bà ấy lên tận sở công an thành phố thưa bà đó. Công văn, công điện chúng tôi nhận được từ lúc 12 giờ trưa hôm nay, và bà ấy đă cho biết bà Lê thị Hồng cướp ghe vượt biển. Ghe này có phải mang số: SS0167 không?

         Nói xong tên công an quăng ra bản công điện nhận từ Sở công an Thành Phố, trên đó có ghi rỏ tên chủ ghe, chủ máy, và những lời tố cáo hợp đồng giả mạo để vượt biên, nên bà chủ ghe cứng họng.

         Chờ trời vừa sụp tối, chúng tôi được lệnh giải giao về huyện Cần Giờ đoạn đường này phải mất cả đêm. Tôi không c̣n nhớ tên xă là ǵ nhưng biết là xă cuối cùng của huyện. Sáu tên công an áp tải với 3 khẩu AK47, 2 khẩu M16 và 1 cây M79. Nh́n những khẩu súng trên tay 6 tên công an đang giữ, trong số các loại này tôi chỉ sợ khẩu M79.

         Chúng tôi được mở trói lúc đẩy trở lại ghe, và tất cả bị đẩy xuống hầm tàu chỉ chừa lại một tài công điều khiển. Ghe chạy được một đoạn ngắn, anh tài công buồn chán nản, cho gọi tôi lên điều khiển con tàu. Tôi nhảy lên pḥng lái, nhanh mắt quan sát, thấy cách công an bố trí, rồi thoáng nghĩ chắc đời ḿnh hết chạy, một tên công an ngồi trên mũi ghe, một sau lái, một trên nóc, 2 bên hong và một ngồi cạnh bên tài công để hướng dẫn đường. Như con chim bị nhốt trong ḷng, cố t́m lỗ trống bay ra, cầm tay lái nhưng đầu tôi luôn suy nghĩ.

        Hơn 8 giờ đêm, trên trời mặt trăng lưỡi liềm lơ lững, ánh sáng chiếu trắng bon tàu. Bỗng tên công an ngồi canh tôi lên tiếng hỏi.

        - Trên ghe các anh có ǵ ăn không?

         Tôi suy nghĩ một chút và trả lời:

        - Trên ghe có gạo, muối, khô sặc, khô đuối, nếu các anh đói bụng th́ tôi đi nấu cơm. Không đợi tên CA trả lời, tôi cúi đầu xuống hầm tàu gọi thằng đàn em lên cầm lái thế tôi.

        - Cứ giữ tay lái thế này, bẻ qua, bẻ lại như lái xe hơi; cố giữ cho chiếc ghe đi thẳng. Tôi đi bắt nồi cơm. Khi bước ra sau ghe gặp tên công an sau lái hỏi.

        - Anh làm ǵ đi ra đàng sau này?

        Tôi trả lời.

        - Đi nấu cơm, anh ngồi trong pḥng lái bảo tôi đi nấu cho tất các anh ăn.

        Tên công an này yên lặng, th́ ra tên công an trong pḥng lái với tôi là trưởng toán. Nấu cơm xong tôi nướng cá khô sặc kèm theo khô cá đuối. Mùi cá khô làm thơm phức cả tàu, tôi thấy cả mấy tên đói bụng đang chờ ăn. Tôi vừa nấu cơm, nướng khô, nhưng đầu óc quay cuồng t́m cách thoát. Nấu cơm, nướng cá khô xong đă hơn 9 giờ đêm, tôi dọn ra phía trước mũi giữa bon tàu, rồi mời tất cả vào ăn một lượt. Sáu tên công an tụm lại ngồi ăn.

         Bầu trời mờ mờ ánh trăng, mặt sông loang loáng ánh sáng. Tôi không thể xác định được điểm đứng, đây là nơi nào… Hai bên bờ mờ mờ trong sương đêm, nhưng đây là dịp ngàn năm một thuở, bằng mọi giá tôi phải thoát khỏi con tàu này. Trở vào pḥng lái dặn ḍ thằng đàn em Ch/úy, nói vắn tắt cho anh ta hiểu hoàn cảnh hiện tại của tôi. Và tôi dặn anh ta cố gắng giữ cho con tàu ép về bên phải.

        - Tao phải đi, bằng mọi giá phải đi.

       Thấu hiểu được hoàn cảnh của tôi, nên anh đă làm như lời tôi dặn. Con sông rộng độ chừng 100m, tôi th́ quờ quạng không lội xa.

        Ghe bắt đầu lạng dần về bên phải, tôi ra sau lái, thấy Đ/úy Nam trưởng pḥng truyền tin PTT nằm ngoài cạnh bon tàu. Tôi nói nhỏ vào lỗ tai anh ấy.

        - Trốn không? Đă tới lúc.

         Anh trả lời với giọng buồn thiu:

       - Bạn đi đi, giấy tờ tôi đầy đủ, hơn nữa giờ này vợ con tôi không biết ra sao ngoài cửa biển, good luck...!!

        Biết anh không đi, tôi vội vàng ḷn qua khung cửa sổ bên hông tàu, chùi ḿnh qua cửa, rố thả nhẹ đôi chân, ḿnh trầm xuống nước. Nước lạnh, có gió, tôi rùng ḿnh, tự nhủ thầm “Nhứt chin nh́ bù”. Tôi nhoài ḿnh cố gắng lặn ra xa; cánh quạt chân vịt phía sau tàu giúp đẩy thẳng tôi ra một đoạn, cố nín thở, lặn sâu xuống nước, nhưng không hiểu sao lúc này đầu cứ lại trồi lên. Tôi hụp xuống và lặn ra xa cách chiếc ghe độ chừng 10 mét, tiếng máy ghe cứ nổ đều đều, không một chút nghi ngờ, trên ghe vẫn yên tỉnh. Thật cám ơn thằng Ch/uy đàn em. Tôi nín thở cắm đầu lặn tiếp, lặn mấy hơi, trồi lên thở mà vẫn thấy chiếc ghe c̣n rất gần. Tôi than thầm trong bụng; không c̣n đầu óc để tính toán, suy luận. Trong đầu chỉ c̣n một ư niệm “thoát hay là chết”. Lấy hơi, vừa lặn tôi vừa bơi về bên phải để vào bờ. Lúc này, tôi sợ nhất là khẩu M79, khi chúng phát giác có người trốn chúng sẽ dùng khẩu đó để bắn chụp xuống sông, chắc tôi sẽ bỏ xác v́ tức nước, AK47 và M16 th́ tôi đă biết rơ tầm tác hại, xui lắm tôi mới dính đạn này. Cám ơn Thủy Quân Lục Chiến. Cám ơn Quảng Trị chiến trường. Kinh nghiệm đó tôi lấy làm căn bản. Để đối phó cùng thực tế đêm nay.

         Tôi vẫn cố sức săi vào bờ, ghe vẫn chạy đều đều trong đêm trăng sáng, khi tôi bám được bờ th́ tiếng máy đă xa dần. Nhảy lên bờ, việc đầu tiên là t́m chỗ ẩn núp, pḥng khi phát giác, bọn chúng sẽ cho ghe trở lại t́m kiếm. Nằm yên lặng trong mấy gốc tràm hơn nửa tiếng với quần xà lỏn áo thun, bây giờ tôi mới thấy đói và lạnh. Tôi cố t́m một khoảng trống bằng mặt để nghỉ lưng, nhưng t́m măi vẫn không sao có được, cuối cùng phải đành nằm trên đống rễ tràm lồi lơm. B52 (muỗi) bắt đầu quần thảo khi đă đánh hơi, chịu không nổi với đám muỗi rừng quần thảo, tôi trầm ḿnh xuống nước để giải vây, vừa đứng yên tay chân không quậy nước, một đàn tàu ngầm (cá ḷng tong) bay vào phập tới tấp vào chân tôi. Chưa bao giờ tôi nghĩ cá cắn đau như vậy. Tôi sợ một hồi nó phập luôn “thằng nhỏ” nên nhảy phóng lên bờ chịu đựng B52. Không chiu nổi B52 th́ cho tàu lặn cắn. Tôi loay hoay đối phó với bọn “địch” không chợp mắt chút nào từ 10 giờ đêm tới 4,5 giờ sáng.

         Ánh sáng mờ mờ từ hướng đông, chung quanh thật yên tĩnh. Lạnh và đói, tôi chợt thèm ly rượu đế ấm ḷng. Tôi bâng khuâng nhớ lại những đêm lạnh nước ngập trung đội đi tiền đồn ở thôn Gia Đẳng, nhớ lại đêm trốn trại ở Bù Gia Phúc năm rồi trong rừng Phước Long. Nhưng rừng cao nguyên khác xa rừng tràm ngập mặn của vùng Rừng Sát. Những ngày đó, tôi c̣n đồng đội, c̣n anh em. Bây giờ đứng đây, một ḿnh, “tứ đầu thọ địch”. Tôi đứng lên định hướng, bỗng tôi nghe đàng xa trong bờ rừng bên phải từng hồi kẻng vang lên, loại kẻng này với tôi không lạ. Tôi di chuyển về hướng ngược lại, đi dần về hướng tây. Một hồi kẻng khác lại vang lên. Tránh đầu này th́ nghe kẻng đầu kia. Biết ḿnh bị lọt vào khu vực trại cải tạo nữa rồi, nhưng tôi không biết được nó là ở nơi nào. Tôi xác định, điều trước hết là phải lội qua bên kia sông rồi tính tiếp. Nh́n ra sông, con sông ngày hôm qua chiếc ghe tôi đi qua. Sông rất rộng, tôi đi tới đi lui một hồi t́m không ra khúc sông hẹp, đang t́m kiếm th́ trời mờ sáng, cảnh vật rơ dần, tôi áng chừng khúc sông nầy rộng gần 100m. Nh́n dọc theo mé song, từ đàng xa tôi thấy một ông già ngồi trên chiếc xuồng nhỏ, phản ứng tự nhiên, tôi thụp đầu xuống núp vào một lùm cây. Làm ǵ bây giờ? Ông ta là ai? Gấn đây có xóm nhà? Hay là cán bộ trong trại vừa đánh kẻng? Rối mù với hàng trăm câu hỏi. Tôi định thần nh́n thật kỹ, ông già đang ngồi trên chếc xuống nhỏ, chung quanh đó là đàn vịt đang b́ bỏm lặn hụp t́m mồi. A! Ông già chăn vịt. Tôi quyết định đi về phía ông lăo. Khi thấy tôi ổng liền hỏi.

        - Cậu làm ǵ ở đây?

        Tôi phải đành nói thật: - “Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới đây rồi nhảy trốn”.

        - À th́ ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối.

        Tôi vội hỏi thăm ḍ tiếng kẻng. Ông trả lời

       - Đây là "Đặc Khu Rừng Sát” chung quanh đây toàn trại cải tạo “Phục hồi nhân phẩm của người x́ ke ma túy”.

        - Vậy bên kia sông có trại cải tạo nào không Bác.

        - Không, chỉ bên này thôi.”

        - Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không, v́ cháu lội không rành.

        - Không được, không được, cậu có thấy một đàn vịt gần 2000 con tôi đang chăn, đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu mà t́m. Thôi cậu ráng mà lội qua đi.”

        Ḷng buồn thất vọng, nhưng cũng hiểu cho ông v́ đàn vịt đó là sự sống của ông hằng ngày. Tôi đi tới, đi lui vài lần dọc theo bờ sông, śnh, bùn, cỏ lác trộn lẫn những gốc  tràm và nước ngập tới gối, tôi cố t́m chổ nào hẹp nhất để lội qua, nhưng dường như không khác chổ nào. Ḍng sông nước chảy xiết rộng chừng gần 100 mét. Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ, giờ đụng phải con sông quá rộng, lúc này tôi ước ǵ lội được như thằng Sinh, thằng Mỹ hai đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi chiều. Suy nghỉ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn, đă tới lúc tôi phải quyết định lội qua, bằng mọi giá phải rời xa khu cải tạo.

        Nhớ lời thằng Sinh nói, điều quan trọng nhất là khi mệt phải thả ngữa,chân đạp nhe nhàn, đừng để vộp bẽ, khi đở mệt th́ trở người qua lội tiếp. Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho ḿnh để vượt qua con sông này.

       Lấy hết b́nh tĩnh, tôi bắt đầu lội, lúc đầu c̣n khỏe, th́ lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét, nước sông chảy xiết, quá mệt tôi thả ngửa mặc cho ḍng nước đẩy, hơi đỡ mệt tới phần lội nhái, cứ sải, ngửa, rồi nhái tới được giữa sông, thả ngửa nghỉ mệt.

Nghỉ tới vợ và đứa con gái c̣n chưa thấy mặt, nhưng dẩu sao vợ con tôi đă đến được bên bờ tự do, có biết tôi đang sắp chết đuối để đi t́m. Tiềm thức cũ, cứ lần lược tung ra trong lúc đó, có lẽ là dấu hiệu của những người sắp vĩnh viễn ra đi.

Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện “Anh Phải Sống” của Khái Hưng hai vợ chồng chèo xuồng ra giữa sông vớt củi, trời mưa, sóng lớn, rồi bị lật xuồng. Vợ chịu chết đuối, cho chồng sống nuôi 3 con “Thằng Ḅ, cái Bé, cái Lớn”  “Anh Phải Sống” không lẽ tôi bị chết ch́m như người vợ trong câu truyện này.

Ư chí tôi trở nên mạnh hơn “Tôi phải sống để t́m Tự Do”. Trở người lại, tôi sải thêm một đoạn, rồi nhái, ngửa, liên tục hai ba lần thi sắp tới bờ bên kia… Thả ngửa, nghỉ mệt lần cuối rồi lội thẳng vào bờ. Gần tới bờ tôi quá mệt, với nắm được cành tre nằm tḥng đưa ra ngoài mé, mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ. Cành tre không chụi nổi sức nặng thân tôi, găy kêu rôm rốp.

Nghe tiếng động, tôi chợt thấy 3 dáng người chạy thẳng vào hướng tôi. Vội vàng, tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn, rồi ngóc đầu quan sát. Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội, tôi mất hồn định lặn trốn xa, th́ tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám.

- Đă thấy anh rồi, đừng sợ, tui em trốn nghĩa vu, không phải bộ đội.

- Nghe tiếng nói của người miền Nam, khi nh́n thấy tụi nó trẻ, chắc là nói thật. Tôi liều mạng  lội ra ḅ lên bờ. Ba thanh niên dẫn tôi tới căn cḥi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn.

- Anh làm ǵ ở đây?

- Đi vượt biên ghe anh bị bắt ngoài cửa biển, bị công an giải giao về huyện Cần Giờ, khi chạy tới đây anh nhảy trốn.

- Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua nhưng không nghĩ là ghe bị bắt.

Thanh niên ngồi đối diện tôi nói:

- Anh này gan thiệt, anh có biết đây là “Đặc Khu Rừng Sát” nổi tiếng cá sấu trên con sông này không? Tuần vừa rồi có đàn trâu lội ngang sông, có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một gị.

Tôi trố mắt hỏi lại “thiệt hôn” vậy mà từ tối qua tới giờ anh cứ lên xuống nước liền liền, có biết đâu mà sợ. Quả thật là số tôi vẫn c̣n may mắn đúng là điếc không sợ súng, nghĩ lại rùng ḿnh. Hồi lúc nhỏ khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về “Đặc Khu Rừng Sát" này, nhưng không nghĩ đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này, rất lư tưởng cho VC dễ dàng bị phục kích.

Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột, tôi quá đói không mắc cở để mở lời.

- Cho anh xin nửa chén cơm được hôn.

- Được, người ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một chén cơm nguội.

Tôi đớp ngon lành, cắn hột muối mà tưởng như cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt, cảm giác này chưa có trong đời. Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện, tụi em ở đây từ bao lâu rồi?

- Hơn sáu tháng

- Có về thành phố chơi không? Nhà ở đâu? Tôi hỏi

- Thỉnh thoảng nhớ nhà, ra cửa sông lớn có giang ghe vê nhà bè, trốn về chơi vài ngày rồi trở lại.

- Anh muốn về cầu Rạch Ong th́ làm sao đi?

Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói.

- Cách đây không xa lắm, tui em biết có một bà nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu, nhưng lâu lâu bà ấy mới về. Tụi em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ, may ra bà ấy về sớm.

Nói chuyện với ba đứa thanh niên trẻ, tôi t́m hiểu để rơ thêm khu vực này. Gần mười giờ sáng, ba đứa dẫn tôi đi, qua những đoạn rừng tràm, lên đê, xuống ruộng, rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số, tôi nh́n thấy xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ, và  căn cḥi nhỏ mập mờ. Tôi hỏi có phải căn cḥi đó không?

- Đúng rồi, tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về.

- Cám ơn mấy em nhiều lắm. Nếu không gặp tụi em th́ anh biết ai mà nhờ, làm sao anh biết được khu vực này.

Tới khúc đê quẹo vào trong cḥi, 2 đứa đứng lại c̣n một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi.

- D́ Tư, có anh nầy muốn quá giang về cầu Rạch Ong khi nào D́ về giúp dùm.

Tôi tŕnh bày sơ qua cây chuyện vượt biên của tôi cho D́ Tư rơ.

Rồi thanh niên quay lại chào tôi “Thôi em về”. Sau khi mấy thanh niên vừa khuất cua quẹo căn cḥi..

D́ Tư nh́n tôi rồi nói với giọng hốt hoảng.

- Thôi chết tôi rồi cậu ơi, ba đứa đó là điềm chỉ viên của công an thôn này. Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi, rồi đi báo công an để bắt luôn tôi. Thôi cậu đi t́m chỗ khác đi, tôi sợ lắm.

Biết đâu mà đi bây giờ, cả khu vực này chỉ thấy có căn cḥi một, tôi tiếp tục năn nỉ d́. Thấy tôi năn nỉ quá, d́ tư xiêu ḷng.

- Thôi được, tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa, và bây giờ th́ cậu không được ở trong cḥi mà phải ra bờ rừng mà ở khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu và cũng an toàn cho tôi.

Rồi D́ Tư chỉ hứơng trước mặt cḥi là khu rừng chàm dầy đặt cách đó độ vài trăm thước, tôi nghe d́ nói cũng có lư nên nghe theo; hơn nữa cũng không c̣n cách khác. Có người nhận giúp lúc này là vô cùng ơn phước lớn. Tôi vội vàng cám ơn D́ Tư rồi đi tiến về rừng. Đi gần tới đám rừng chàm tôi nghe tiếng động rào rào dưới mặt đất phía trước mặt, đưa mắt nh́n xuống tôi thấy hàng ngàn con c̣ng đỏ chạy chui vào hang lẫn trốn khi nghe tiếng động của chân tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô. Vào bờ rừng chừng năm ba thước, tôi lựa chổ mát nhất trong đám tràm khô, nằm kê đầu vào nhánh rể lớn. Mệt lă, tôi nằm yên thiêm thiếp, tưởng là xác chết, một đám c̣ng ḅ ùa ra cấu xé tay chân tôi. Tôi vùng dậy đám c̣ng văng ra tứ phía, tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không là xác chết. Khi thiếp đi th́ chúng nó lại xông vào cắn tiếp, chẳng ngủ yên được với đám c̣ng đỏ này.

Cả đêm ngâm nước, giờ th́ trời nắng chang chang trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt, lạnh run cầm cập giữa buổi trưa, nhắm mắt nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh. Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ, tôi mở mắt nh́n lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn ḿnh ḅ xuống. Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhích, để mặc con rắn cắn hay mổ ǵ cũng được. Con rắn lớn ḅ qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác.

Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng, tôi nghĩ lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa. Chịu hết nổi cơn sốt tôi đi liều trở vào cḥi. D́ Tư thấy tôi vào vội hỏi:

- Cậu vào đây làm ǵ? Đă nói cậu phải ở ngoài rừng.

- Cháu bị sốt lạnh, ngoài đó nắng quá chịu không nổi, rồi tôi tiếp tục năn nỉ d́ tư.

Suy nghĩ một hồi rồi D́ Tư nói

- Tôi có thể giúp, đưa cậu tới xă Lư Nhơn, rồi từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5, 7 cây số, qua phà, rồi đón xe về câu Rạch Ong, nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng.

- Cháu trong ḿnh c̣n vỏn vẹn 80 đồng, vừa nói tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa d́ hết 80 đồng. D́ tư cầm lấy nhưng không hài ḷng lắm, thấy mắt nh́n chiếc nhẫn cưới vàng 18K tôi đang đeo trên ngón tay áp út, hiểu ư D́ Tư tôi tuột nhẫn ra đưa. Ngay sau đó, thái độ d́ đổi khác.

- Thôi được, để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe đưa cậu về xă Lư Nhơn. Nhưng nè nghe tôi dặn. Khi tới xă, đi xuyên qua rồi cập trên đê mà đi qua phà chỉ tốn 3 đồng, đón xe về Rạch Ong 5 đồng là tám. Đây tôi cho lại cậu.

D́ Tư cho tôi lại đúng 8 đồng, tôi vội vàng cám ơn D́.

Hai thằng con tuổi chạc 13, 15 đă chuẩn bi xuồng xong, rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ. Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá, cùng đống lá chuối bên cạnh xuồng. Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng, th́ hai đứa nhỏ nói:

- Anh nằm xuống đi, để tụi em phủ lên người lớp lá chuối, để ra ngoai kia công an không để ư, tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối.

Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ, rồi nó phủ lên người ḿnh mười mấy tấm lá chuối tươi.

Thằng anh chèo mũi, đứa em chèo lái. Chiếc xuồng nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác, hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh nhỏ trong khu rừng sát. Khi ra tới cửa con sông lớn, chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp sóng đi chậm dần, thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp, giá tôi c̣n tiền cũng đưa hết cho hai em. Thỉnh thỏang tôi ngóc đầu lên nh́n xem c̣n bao lâu nữa.

Thằng em sau mũi nói: - “ đă hơn nửa đường, c̣n gần một tiếng nữa mới tới xă Lư Nhơn”

- Tụi em có thường chèo ra khu vực này không? tôi hỏi chuyện

- Thỉnh thoảng qua đây bán cá tiện đường về thành phố mua nhưng món đồ cần thiết.

- Tụi em chèo xuồng có mệt không?

- Quen rồi ngày nào mà không chèo, giăng câu, đi chợ, chèo về nhà mỗi tuần c̣n xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi. Tṛ chuyện với hai đứa nhỏ một hồi th́ xuồng đă tới xă Lư Nhơn.

Hai đứa nhỏ nói:

- Anh ngồi dậy đi tới nơi rồi đó.

Tôi chỉ nó cho tôi xuống chỗ tôi đỗ Cát hai tuần trước đó. Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi. Trước khi xuống hai em căn dặn:

- Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5, 7 cây số sẽ gặp bến phà, qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi.

- Cám ơn hai đứa em nhiều lắm, thôi hai đứa trở về nhà đi.

Lúc này đă hơn bốn giờ chiều, trong túi được D́ Tư cho lại 8 đồng, cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe. Bước đi trên đê có một ḿnh đơn độc, về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi, quần sọt, áo thun, đi chân không như người làm ruộng, phóng đi thật lẹ, được vài cây số vẫn không thấy bóng người. Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi, được vài cây số nữa th́ từ xa tôi nh́n thấy được một dăy nhà, thật mừng rỡ có lẽ là tới bến phà. Khi đến gần th́ quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng. Quả thật D́ tư nói đúng. Trả 3 đồng qua sông là tới nhà Bè, tới bến xe Lam về cầu Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng. Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài, khi nh́n tôi lạ ông tài xế hỏi

- Đi đâu mà chân không, quần xà lỏn, áo thun vậy?

- Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xă Lư Nhơn, tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy. Thấy có lư bác tài không hỏi nữa. Khi xe chạy đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống. Hết tiền, tôi liều quắc đại Honda  ôm kêu chở thẳng về ngă sáu chỗ nhà bạn thân của thằng em, là một trong những nơi tôi thường tá túc. Về tới nhà cũng may, tôi xin được 10 đồng đem trả tiền xe.

Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi, trú ẩn. Nơi đây, với tôi coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp.

Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi là tôi vẫn c̣n mạng sống. Vượt biên quả thật là không đơn giản. Sau này khi trở lại Saigon để t́m đương vượt biển chuyến thứ ba. Mới vỡ lẽ cũng v́ ḷng chủ tham nên chuyến thứ hai của tôi hoàn toàn thất bại.

Văn viết không hay, hơn 32 năm đă bao lần tôi định viết lại chuyến trốn tù, để cháu con tôi hay đời sau được biết, nguồn gốc ở đâu và v́ sao chúng được tới nơi này.

Nhờ Lư Khải B́nh cho tôi dịp gặp đuợc 2 NT trong buổi tiệc tân gia. Cám ơn NT Tô Văn Cấp, NT Phan Nhật Nam đă khuyến khích tôi cứ viết lên những ǵ tôi nghĩ, nên đă hoàn thành xong câu chuyện trốn tù. Và đây chuyên thứ hai là đề tài vượt biển.

         Chuyến trốn thứ ba của đời tôi vô cùng ngoạn mục, cũng là chuyến cuối cùng tôi giă biệt địa ngục XHCNVN.

 

    San Jose 25-3-2012

   MX Trần Văn Khỏe

 

 Copyright by anloc471.com 2009. All Rights Reserved. Design Doangoc 341