MŨ ĐỎ 4/71 VÀ PHẠM
LÊ PHONG
Viết
để nối tiếp theo câu chuyện của Niên Trưởng Trần
Hồng Phú về Phạm Lê Phong (PLP), là người lính trẻ
đă hy sinh đầu tiên của khóa 4/71 khi về Nhảy Dù.
Viết để gợi nhớ về một thời chinh chiến cùng các anh
em khóa 4/71 về Nhẩy Dù
Cái chết của Phạm Lê Phong khi về Dù cho đến giờ vẫn
là đề tài mà anh em cùng khóa bàn luận bấy lâu nay.
Có phải PLP là người tử trận đầu tiên của khóa hay
không, hay một ai khác? Chúng ta chỉ biết PLP
hy sinh không lâu khi vừa mới ra trường.
Phong chết ngày nào, như thế nào không ai biết rơ.
Cái chết của Phong cũng như cái chết của các anh em
cùng khóa khi ra trường đúng vào lúc cuộc chiến đang
sôi động và khốc liệt nhất.
Cái chết của Pham Lê Phong sau đó đă được vinh danh
như một anh hùng, cũng như bao nhiêu anh em khác
cũng đă hy sinh trong cuộc chiến vừa qua: Họ chết để
chúng ta được sống!
Hôm
nay, nhân đọc những lời của Niên Trưởng TH Phú nói
về PLP trên trang nhà anloc471. Tôi cũng xin góp vài
lời về PLP khi cùng các bạn khác và Phong về cùng
Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.
Trong suốt thời gian h́nh thành trường sĩ quan Trừ
Bị Thủ Đức cho đến thời điểm đó, có lẽ khóa 4/71 là
khóa không được hưởng phép 7 ngày sau khi tốt nghiệp.
Tất cả đều được đưa về đơn vị mới ngay sau
buổi lễ măn khóa. Nhưng thiệt tḥi nhất vẩn là đám
chọn về Dù, các anh em được đưa thẳng về Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn Dù và bốc đi sau đó trong buổi tối cùng ngày.
Trong
khi đó có nhiều anh em may mắn
được tiếp tục học
những khóa học chuyên môn ngắn hạn
trước khi về đơn vị mới,
nên họ c̣n có một khoảng thời gian ở lại đâu đó gần
Saigon, đó là khoảng thời gian "vàng" hiếm hoi đối
với họ.
Riêng anh em
về Dù,
lúc
lên xe
nhiều người vẩn c̣n hy vọng khi dến nơi, nhận đơn vị
mới xong sẽ được về nhà ! Nhưng ước mơ
vẫn là mơ ước, khi
cánh cửa của Khối Bổ Sung sư đoàn khép chặt lại khi
đoàn xe chở các sĩ quan mới ra trường vừa vào đến
bên trong, và từ đó số phận cũng như định mệnh cho
cuộc đời từng ngươi cũng bắt đầu ở nơi
này.
Đó là
Khối Bổ Sung Sư Đoàn Nhảy Dù.
Đêm 29-7-1972
có lẽ đây một đêm dài nhất đối với 118 (?) viên
chuẩn úy mới ra trường của khóa 4/71, một đêm thật
buồn thảm mà tôi không bao giờ quên được. Một đêm
với nỗi chán chường mênh mông cho tất cả anh em
chúng tôi,
khi chúng tôi biết không c̣n hy vọng ǵ để về thăm
nhà.
Lúc đó tôi chợt nghĩ thôi rồi Quân Đội đă phỉnh lừa
ḿnh rồi, không thể nào như thế được, không thể đi
ngay khi chưa từ giă gia đ́nh và
bạn bè
người thân. Nỗi thất vọng càng tăng cao khi
những viên sĩ quan hậu cứ của các tiểu đoàn bước ra
và đọc tên nhận
người và phát vũ khí và
đạn dược.
Tôi hiểu thế là xong !
(không
c̣n hy vọng ǵ nữa), đêm nay sẽ phải đi mà thôi. Trên
gương mặt anh em hiện rơ nỗi
tuyệt vọng
năo nề v́ những ngày phép cũng như những hẹn ḥ
không bao giờ có với họ như mong đợi.
Tất cả đang chờ để đưa đi Quảng Trị, vùng đất của
khổ nạn điêu linh! Trong khi đó khổ nhất vẫn c̣n
nhiều anh em mang theo bộ đồ đại lễ không biết
gửi ai bây giờ, họ vẫn ấp ủ niềm hy vọng được về
phép sẽ mang về nhà cất làm kỷ niệm.
Tờ mờ sáng 30-7-72 khi Saigon c̣n đang ngái ngủ,
những người lính của chín tiểu đoàn Dù lầm lũi bước
vào những chiếc C.130 đen đủi để bay vào chảo lửa
của vùng trời Quảng Trị. Mang theo 118 viên ch/úy
khóa 4/71 mới ra trường, để rồi trong số đó gần một
nửa không bao giờ trở lại. Có thể đây cũng là lần
cuối cùng họ c̣n nh́n thấy ánh đèn mờ sương
xa xa
của vùng G̣ Vấp qua khung cửa kính máy bay buổi sáng
hôm đó. Trong số những người không bao giờ trở về đó
có Phạm Lê Phong , SVSQ của khóa 4/71 mới ra trường.
Buổi sáng đó
ngày đó, tôi
vẫn nhớ măi h́nh ảnh của một viên Trung Tá Không
Quân mặc bộ đồ bay đứng tận cửa sau của chiếc C 130
tiễn đứa em của ḿnh theo
chân
đoàn quân Dù đi vào vùng lửa đạn. Khi phi cơ bắt đầu
nổ máy và
khi
cánh cửa tàu bắt đầu đóng lại. Tôi thấy đôi mắt nḥe
lệ của ông ta nh́n theo đoàn quân ra đi, Ông đâu
biết rằng đây là lần cuối ông nh́n thấy đứa em thân
yêu của ḿnh.
Đó là
Trần Nhật Chánh 354, đây
là lần chào vĩnh biệt của hai anh em, nó sẽ không
bao giờ trở lại.
Chánh "cá tḥi ḷi" hy sinh một tháng sau đó khi
Tiểu Đoàn 7 Dù của nó bị tan tác ở đồi 90.
Viên đạn pháo 130 ly đă xé toạc thân nó cùng với ước
mơ được đi dạo ở đường Lê Lợi Saigon với nón đỏ và
áo hoa Dù mà nó thường mơ ước !
Về đến phi trường Phú Bài, các anh em 4/71 và binh
sĩ tăng viện thuộc chín tiểu đoàn được xe chở
về tiền trạm của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đóng ở Cây Số
17 (cách Huế 17 km). Nơi đây, các anh em được phân
bố vào các TĐ và năm chờ rải rác trong căn cứ.
Số anh em nào may mắn khi chưa có trực thăng đưa vào
trong th́ được thảnh thơi ra Huế chơi. Đa số c̣n lại
được bốc đi ngay trong chiều 30 tháng 7 đó.
Tôi c̣n nhớ lần đầu tiên đặt chân đến nơi này. Một
nơi có buổi trưa với cơn mưa lất phất thật buồn, kèm
theo những cơn gió mạnh se sắt lạnh đan vào những
ngày giông băo làm chúng tôi nhớ Saigon và nhớ gia
đ́nh quay quắt đến điên cuồng. Nằm trên những tấm
palette gỗ trong căn lều dă chiến của tiểu đoàn cùng
5 (?) anh em khác, gồm tôi, Nguyễn Văn Phải 354,
Phạm Lê Phong và 3 anh em c̣n lại lâu quá tôi không
c̣n nhớ tên. PLP vẫn ngồi buồn bă trầm tư với ánh
mắt ngó mông lung xa xăm. Đôi mắt to nhiều ḷng
trắng và cái nốt ruồi bên khóe miệng của PLP đến giờ
tôi vẫn c̣n nhớ như in. Chúng tôi không được đi đâu
xa v́ có lệnh từ đây tới chiều chúng tôi có thể đi
không biết lúc nào. Chung quanh đó, các người lính
tiểu đoàn rầm ŕ bàn tán về chúng tôi, các sĩ quan
mới ra trường với ánh mắt đầy ái ngại pha lẫn sự
kính phục. Nguyễn Văn Phải 354 vẩn b́nh thản nói "nếu
từ đây tới chiều ḿnh không đi, tụi ḿnh ra Huế chơi".
Phong và tôi chỉ ừ hử cho qua chuyện.
Đặt chân đến đây,
chúng tôi mới biết ḿnh đang đối mặt thật sự với
chiến tranh. Thật sự ngửi được mùi của cuộc chiến
bàng bạc khắp nơi: Mùi máu nồng nặc của các thương
binh
và tử khí,
mùi của các bộ đồ trận đă lâu không thay, mùi khói
của nhưng chiếc GMC ra vào liên tục, mùi của súng
đạn ...và là mùi của khổ nạn cho tuổi trẻ Việt Nam
ngày đó.
Sau đó
điều không mong đợi của chúng tôi đă đến. Trên băi
đáp trong căn cứ, các trực thăng UH1B bắt đầu
đồng loạt
nổ máy.
Một h́nh ảnh đẹp oai hùng mang lẫn nỗi buồn của biệt
ly khi nh́n những người lính trẻ vội vàng bước vào
bên trong tàu. Động cơ cánh quạt của những chiếc
UH1B vần vũ phành phạch đều đều ấy
như tiếng trống trận giục
dă ḷng người. Âm thanh ấy
cho đến hôm nay nó vẩn c̣n gây cho tôi cái cảm giác
đầy kỷ niệm của một thời chinh chiến mỗi khi nghe
lại được. Âm thanh của niềm vui và nổi buồn, vui khi
thấy nó vào tiếp tế, buồn khi thấy nó mang xác anh
em về !
Chúng tôi,
các người lính của TĐ 3 Dù lầm lũi bước vào tàu để
đến một nơi xa xăm lạ huắc mà chưa bao giờ h́nh dung
được. Chiến trường mặt Tây của Quảng Trị từ Quốc Lộ
1 vào tận các rặng núi xa xăm. Ở đây một nơi vắng
ngắt và hiu quạnh, chỉ toàn là đồi trọc và hầm hố.
Không một bóng cây, không một ngôi nhà, chỉ người và
người. Đó là những người lính Nhảy Dù QLVNCH và
những người lính
bên kia chiến tuyến,
với
màu áo xanh rêu đội chiếc nón cối mong manh với hàng
chữ .."sinh Bắc tử Nam". Nhưng nhiều nhất nơi này
vẩn là màu ĐỎ, màu của máu và của lửa.
Sáu thằng tôi về
các
đại đội khác nhau. Khi lên trực thăng tôi không đi
cùng tàu với Phong, Phải và 3 người khác, nên không
biết họ về đại đội nào. V́ các đại đội đóng xa nhau
cách mấy ngọn đồi. Từ cây số 17 bay là đà theo quốc
lộ 1, nh́n xuống con lộ hoang vắng loang lổ đầy hố
bom. Hai bên vệ đường đầy rẫy các xác xe cháy loang
lổ. Phải gọi đây là tử lộ 1 hơn là quốc lộ 1 mới
đúng. Một con lộ hoang tàn của chiến tranh. Nửa
tiếng sau chúng tôi đă đến vùng kiểm soát của quân
Dù.
Bay sát
các sườn đồi để tránh các khẩu 12.7 ly của phía bên
kia. Tôi nh́n thấy bên dưới quân ta ẩn hiên trong
các công sự chiến đấu đang vẫy tay chào. Khi gần đến
mục tiêu, các trực thăng chở quân tách ra thành
nhiều băi đáp để tránh bị lộ. Chúng tôi lần lượt
nhảy xuống từng nhóm theo hiệu lệnh khói màu của
toán tiền trạm TĐ ra đón. Khi chân vừa chạm đất, tôi
nghe bên kia ngọn đồi cách băi đáp tôi không xa. Có
tiếng cánh quạt của một chiếc trực thăng đang gầm rú
liên hồi như con thú vừa trúng đạn và nhiều tiếng nổ
ầm ĩ dội về. T́m chỗ núp và lần ṃ theo toán tiền
trạm về...nhà mới. Đại đội 34 thuộc TĐ 3 Dù do Đ/úy
Phạm Công Hiếu làm Đại đội trưởng.
Trong buổi chiều hôm đó, Th/úy Lâm Tăng Sum cùng
trung đội cho tôi biết. Mới hồi trưa TĐ ḿnh thả lầm
băi đáp, nên vài người đă hy sinh trong đó có 1 sĩ
quan mới ra trường: Phạm Lê Phong!!!
Ngày đó Tiểu Đ̣an Trưởng là Th/tá Vơ Thanh Đồng chắc
biết rơ hơn về cái chết của PLP. C̣n Th/úy Sum đả
mất năm rồi ở San Diego v́ bệnh. Nguyễn Văn Phải bị
thương giăi ngủ năm 1974, hiên nay ở Úc (? ). V́ vẩn
không liên lạc được nên cái chết của Phong được coi
như người sĩ quan đầu tiên của khóa 4/71 tử trận khi
về Dù. Có phải Phong chết lúc thả lầm băi đáp không?
Điều này tôi không rơ và chắc chắn cho đến hôm nay,
chỉ nghe Th/úy Sum nói lại mà thôi.
Cho nên sự hy sinh của Phong đă mang đến cho khóa
4/71 một nét vinh quang được chúng ta hănh diện,
cùng với những sự hy sinh của các anh em khác cùng
khóa, mà đến giờ chúng ta chưa thể thống kê được.
Caí chết của PLP được vinh danh sau đó là v́, PLP là
con của một vị thủ hiển tên tuổi của miền Nam ngày
trước, khi Phong có điều kiện chọn một đơn vị không
tác chiến, mà lại tự chọn về ND. Để chỉ thấy hiểm
nguy và mất mát trước mát. Cho nên cái chết của PLP
ngày đó như cái chết của một anh hùng mà chúng ta
đều đă biết.
Không
riêng ǵ PLP, mà c̣n nhiều anh em khác của chúng ta
nữa cũng từ chối những chổ "ngon lành" hơn,
để chọn
về Dù, một binh chủng kiêu hùng được mệnh danh là
binh chủng ..."từ chết cho tới bị thương".. .Để rồi
sau đó cũng đă bỏ ḿnh trong cuộc chiến vừa qua mà
có ai biết đến? Như Trần Nhật Chánh 354, anh ruột là
Tr/tá Không Quân Trần Nhật Chấn, Liên Đoàn Trưởng
Liên Đoàn Pḥng Vệ Phi Trường Tân Sơn Nhất. Chánh
cũng là con trai c̣n lại của gia đ́nh có hai anh
đang tại ngũ. Nhưng Chánh vẫn nhất quyết chọn về Dù
mặc cho những lời khuyên gián của gia đ́nh!....Để
rồi chưa dầy một tháng sau từ lúc ra trường,
Khi TĐ 3 vào đồi 90 để thay thế cho "thằng 7" vừa bị
"rách áo". Tôi nh́n thấy thi thể rách bươm của Chánh
đang được khiêng ra! Chánh "cá tḥi ḷi " của 354
được về phép vĩnh viển trong chiếc poncho gói chặt
cuộc đời làm lính Dù ngắn ngủi của nó.!
Như Bùi Ngọc Anh 354, hiền như một anh giáo làng!
lành như cục đất. Nghe lời Huỳnh Văn Chính 331 "rủ"
đi ND, Chính nói qua Dù ...lương cao lắm, Ngọc Anh
theo
ngay. Để rồi hôm nay chỉ c̣n lại Chính Dù, Ngọc Anh
đă
vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất quê hương Qui Nhơn
của ḿnh,
với
đôi môi Anh chưa một lần hôn ai ..
Trương Ngọc Ḥa 321, dân học trường Tây từ nhỏ,Tú
Tài Pháp. Khi măn khóa, trường Sinh Ngữ Quân Đội xin
Ḥa về, nó lắc đầu từ chối để theo 118 vị...anh hùng
Lương Sơn Bạc kia để rồi. Giờ đây ngậm ngùi đến hết
cuộc đời v́ đă bỏ lại một phần thân thể nơi vùng
chảo lửa của mùa hè địa ngục 1972 năm ấy.
Và một
Hà Quốc Tuấn cũng ở 354, thủ kỳ Đại đội 35.
Trắng trẻo, cao to, đẹp trai như Tây lai. Lập gia
đ́nh sớm, nên khi c̣n là SVSQ đă... có con rồi. Lẽ
ra Tuấn phải chọn một đơn vị khác ...hiền hiền một
chút, gần nhà để lo cho vợ con. Nhưng không, Tuấn
nói với tôi .."Tao chỉ khoái Nhảy Dù mày à"! Để rồi
Tuấn đă trả giá cái 'khoái" của ḿnh trong một trận
tapis gần sông Thạch Hăn. TĐ 11 Dù của Tuấn bị...
chơi quá tay. Một quả lựu đạn chày oan nghiệt đă làm
Tuấn không bao giờ c̣n thấy lại ánh mặt trời nữa cho
đến hết đời ḿnh!. Và từ đó danh xưng "Tuấn mù "
được gọi một cách thân thương mỗi khi ai nhắc đến
Tuấn 4/71 của TĐ 11 Dù năm xưa.
Và c̣n nữa
Đặng Vũ Hùng mất 2 chân qua gối của TĐ
6.
V́ sao đa số các 4/71 đều chọn về Dù,
Khi biết danh sách thương vong trong binh chủng này
đứng đầu các đơn vị khác không?
Câu trả lời đơn giản thôi. V́ NHẢY DÙ vẩn là niềm
hảnh diện và tự hào cho các 471 cho đến ngày hôm
nay, chúng ta đă chọn đúng.
Các 4/71 thân mến, các chiếc Dù 4/71 thân thương.
Đến giờ chúng ta vẫn chưa thống kê được hết những ai
đă c̣n và đă mất trong số hơn 1500 người của 4/71
chúng ta sau 38 năm nay. Công việc này tất cả chúng
ta đang thực hiên
cho dù thật khó khăn
và nhiều trở ngại.
An Lộc thành phố năm xưa nay đă hồi sinh, ngôi nhà
anloc471.com
đă vừa xây dựng xong, cửa nhà đang mở rông để các
anh em t́m về, chúng ta đă t́m về và gặp được nhau
sau bao năm xa cách.
C̣n nhiều
chiếc Dù 4/71 lẻ loi vẫn chưa t́m thấy được.
Có những
cánh Dù rách nát chúng ta đang chung tay vá lại nói
riêng và tất cả các 471 đang c̣n khó khăn nói chung.
Đây là công việc làm thật đáng trân trọng và quí
giá, nó nói lên cái t́nh nghĩa và tấm ḷng của anh
em chúng ta. Điều này đă đem chúng ta xích lại gần
nhau hơn, thương nhau nhiều hơn khi trong cuộc sống
hôm nay của chúng ta đôi khi không thấy... thương ai
nhiều bằng anh em đồng khóa của ḿnh.
Hôm nay Xuân lại về, bao năm đă qua đi. Chúng ta đă
mất thật nhiều, mất bạn bè, mất tuổi thanh xuân cho
chiến tranh, cho tù ngục và cho những đắng cay của
cuộc đời. Hôm nay nh́n lại đời ḿnh, giật ḿnh, ôi
Thu sắp qua rồi, Đông đang chợt về. Nhưng chúng ta
luôn vẩn thấy ấm trong ḷng v́ quanh đây ANLOC 4/71
vẩn măi là bếp lửa nồng của những buổi chiều Đông
lạnh giá.
Mũ
Đỏ Saigon
Xuân 2010