“Viết cho 3 Tiễu Đoàn An Ninh Thiết Lộ.
Đặc biệt riêng tặng cho 2 đơn vị mà tôi được hân hạnh
phục vụ: TĐ3/Quân Đoàn3 và TĐ1/Quân Đoàn1, Đaị Úy Khôi,
Đaị Úy Lành, Trung Úy Thịnh, ... và riêng Tặng Huynh
Trưỡng, Thiếu Úy Mang Văn Kiếm, An Lộc 4/71, Khoá QV và
ANTL.”
Đầu 1974, vì nhu cầu khẩn cấp của chiến trường, tiểu
đoàn 1, 2, 3 An Ninh Thiết Lộ (ANTL) tại QĐ 1, 2 và 3
của Cục Quân Vận (QV) được Bộ Quốc Phòng/BTTM dự trù sát
nhập vào Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC). Đa số lính
của TĐ ANTL là lính loại 2 (bị thương) của các tiểu đoàn
tác chiến - TQLC, Nhảy Dù, Biệt Động Quân (BĐQ), và Bộ
Binh (BB). Mang tiếng là lính nghành nhưng thật ra những
TĐ này là thành phần bán tác chiến của QV, với nhiệm vụ
bảo vệ anh ninh cho thiết lộ (Rail Road Security).
Chỉ có những thành phần bị xếp “đì” hoặc ba gai
mới bị đổi về đơn vị này thôi. Đây là đơn vị đầu tiên
của tôi sau khi mãn khóa An Lộc 4/71 trường Sĩ Quan Bộ
Binh Thủ Đức và 3 tháng khóa Quân Vận. Sau khi trình
diện TĐ 3 ở căn cứ Long Bình, được Sự Vụ Lịnh xuống
trình diện Đại Đội ở Ga Hòa Hưng, SàiGòn, một ổ du đãng
và đào binh nổi tiếng, lính nhảy dù trại Hoàng Hoa Thám
mò qua chơi thường bị chém, Cãnh Sát đi một mình không
dám đi tuần và ngay cả taxi đôi khi cũng không dám chở
khách vào ban đêm.
Chuẩn úy mới ra trường, 19 tuổi, miệng còn hôi
sửa. Biểu trình diện đaị đội thì trình diện, sai đâu làm
đó, tới đâu hay đó. Sau vài tuần ngồi đánh cờ với ĐĐ
trưỡng, được lệnh nhảy lên tàu lửa chỉ huy trung đôị, mỡ
đường SaìGòn-Dầu Giây vào lúc 12 đêm. Thằng thư ký ĐĐ,
đưa cho khẩu Colt 45, “Súng của Thiếu Úy đây. Em đã chùi
rồi. Xin Thiếu Úy ký vào lệnh công tác của Đaị Úy….” Tôi
hỏi, “Ủa, taị sao cả trung đội đi công tác mà chỉ có một
nữa đi thôi?” Dạ, anh này vợ đẽ, anh kia con đau, anh
này đi phép, anh này bệnh, và mấy anh này biệt phái cho
ĐĐ…” Còn mầy, thư ký biệt phái cho ĐĐ, không đi hả?
Lương cười ỏn ẽn, “Dạ, Đaị Úy cho em ở nhà.” Thôi cũng
được, đi thì đi. Chuyện hơi kỳ kỳ này đễ mình sẽ hạ hồi
phân giải sau.
Tiểu đoàn tôi có nhiệm vụ rà mìn trên thiết lộ từ
SaìGòn đến Dầu Giây từ 12:00 đêm cho đến 6:00 sáng, một
tháng đi, một tháng phòng thủ doanh trại. Cho thằng
trung đội khác đi hứng mìn chết thế. Té ra đơn vị mình
cũng đang làm nhiệm vụ “Bảo Quốc An Dân” hàng ngày như
các đơn vị bạn mà không biết: Đem thân hứng mìn cho đồng
bào ta an toàn làm ăn buôn bán từ Saìgòn-Dầu Giây (ổ
Việt Cộng) trên chuyến tàu SaìGòn-Long Khánh. Mà từ
12:00 đêm đến 6:00 Sáng làm thế nào mà có thể rà mìn
trên một đoạn đường dài như vậy hàng đêm? Tội nghiệp hơn
nữa, mang tiếng là đơn vị đi dò mìn, mà không được học
lớp rà mìn, không máy rà kim khí, không có dụng cụ phá
hũy mìn bẩy, ...chỉ rà mìn bằng cái mạng cùi khốn nạn
của chính mình. Trung đội tôi, từ quan cho tới lính, vỏ
trang đầy đủ, ngồi trên 3 toa xe lữa. Toa cũng chúng tôi,
cách xa nhau một toa trống và 2 toa đầu thường dùng đễ
chỡ xe, và hàng hóa lộ thiên được gắng trước đầu xe lữa
dùng đễ ủi mìn. Chỉ đơn giãn như vậy! Thế rồi hàng đêm,
thầy trò cùng lắc lư con tàu đi từ SG-DầuGiây, nếu cán
phải mìn thì báo cáo cho “Hạt” hõa xa và ĐĐ mình con số
thương vong. Nếu may mắn an toàn, thì dừng lại nơi điễm
hẹn, bắt tay với trung đội khác từ LongKhánh-SàiGòn và
chờ lệnh rút về mai đi tiếp. Được dặn là coi chừng lính
nó thừa cơ trong lúc tàu tạm dừng ở các ga vài phút,
trốn đi cướp mấy sòng bài bỏ túi ở các ga xép. Nghe lính
kễ lại chuyện này, trước khi tôi ra trường, lúc TĐ còn
hộ tống chỡ hàng cho Mỹ ở Long Bình thì mấy ông thần
nước mặn này không thèm cướp mấy cái sòng bài cắc ké đó.
Chờ khi xe lữa lăng bánh trên đường, lắc lư con tàu đi,
chúng nó nhãy lên đầu toa, chạy từ toa này qua toa khác
cứ như là trong phim cowboy, đu xuống cắt khoá rồi "thanh
tra" các kiện hàng. Chúng chạy từ toa này qua toa khác,
cắt khoá ở ngoài toa, xô thùng hàng xuống tại điễm hẹn…Mọi
chuyện chỉ xãy ra trong vòng 15 phút trên đoạn đường
vắng. Mà theo chúng kễ thì một tháng lương của mình cũng
không bằng 15 phút làm “sỡ Mỹ” của chúng nó.
Đêm đầu tiên, tôi cầu mong là mọi chuyện êm đẹp chứ
không thì lính nó rủa mình có số sát quân. Vậy mà chúng
nó có để mình yên đâu. Đang mắt nhắm mắt mỡ, vừa buồn
ngũ, tàu thì ồn ào, lắc lư, bổng dưng tàu thắng gấp.Vừa
ló đầu ra nhìn, thấy lính mình đã êm ru rãi dọc hai bên
toa xe lữa, tư thế tác chiến sẳn sàng. Tụi này ngon lành
thật, chả bù lúc làm quyền sinh viên sĩ quan đại đội
trưỡng ở quân trường phải la khàn cỗ bạn mới răm rắp vào
hàng. Thì ra thao trường khác với sa trường, không cần
phải bảo, chúng nó cũng đã có kinh nghiệm bản thân đầy
mình. Tôi nhảy xuống toa, nhìn quanh tìm người tiểu đội
trưỡng. “Thiếu Úy, đàng trước có mìn.” Chúng nó nhìn tôi
chờ lệnh. Mà sao những con mắt ma giáo không sợ hãi này
trong bóng tối dường như có vẻ vô lễ, mất dạy cứ như là
"Ê! Chuẫn Úy sữa coi em có đáng làm ông thầy bọn tao
không? Cái thằng con nít mặt trắng môi son này với tuỗi
đời, tuỗi lính nó cũng không thâm niên
|
bằng những ngày
tao còn đau lậu nữa..." Tôi nghĩ thầm, "ĐM, có mìn thì
bắn mẹ vào cho nó nỗ chứ không lẽ tụi mầy muốn tao ăn
mìn dùm chúng mày hả?" Bụng nghĩ vậy nhưng không nói vậy,
thay vì kêu một thằng khinh binh nào đó tới sờ mó dùm
xem nó to hay nhõ, tròn hay vuông, mềm hay cứng và có
thơm tho như mấy em gái hậu phương không? Tôi lại dại
dột, “Tránh xa ra chờ tao lên xem trước đã. Đừng có tới
gần mà chết mẹ cã đám. Đội hình hai bên bão vệ mấy thằng
hoã xa, và Tàu. Sẵn sàng tác chiến coi chừng chúng bắn
sẽ. Báo cáo về cho biết tàu phải ngừng tại đây và mình
đang coi thữ cái gì ở đàng trước." Tôi không cần rút cây
Colt 45 vì nghĩ không cần thiết đễ đấu súng với mìn. Từ
từ tiến lên, mới bước tới vài bước, thì thấy người trung
sĩ tiểu đội trưỡng của mình đã sau mình 3 bước, rồi thì
lính mình cùng tiểu đội trưỡng thứ nhì cũng dàn đội hình
bước theo. Không biết tại sao chúng nó không "nỡ bỏ em
mình" mà lại "nầy bao thằng điên tiến lên, mìn đó đang
chờ ta quyết tiến" - Cái tình huynh đệ chi binh, sống
chết có nhau này chỉ có là lính mới có và hiễu được. Tôi
bướt tới quan sát cái miếng đất nhỏ mới bị đào và lấp
vội vã dưới đường rầy xe lữa. Con mắt nai vàng ngơ ngác
nhìn xuống cái mô nho nhỏ mới đấp lên kế bên đường rầy
mà không biết phải nên làm gì? Quái lạ, đêm hôm khuya
khoắc có thằng con nít nào ra đây đào lỗ ĩa chơi rồi lấp
lại trên cái đường sắt nầy? Vì một cái mô nho nhỏ này mà
làm cả đoàn tàu phải dừng lại không dám bò tiếp. Tôi
chưa bao giờ học gỡ mìn ở trong trường QV; hỏi lính thì
sợ chúng nó khi. Tôi học được bài học sa trường đầu tiên
- mới ra quân đã bị lính thữ. Đem quân về, tưởng ông đaị
đội trưỡng ban khen. Té ra xếp cho uống café đen, “Anh
sao dại thế, thấy mìn thì báo cáo về chứ bước tới nhìn
làm gì, nhỡ VC nó bấm ngoài nỗ thì chết cả đám.” Đó là
bài học thứ 2, từ Đaị Úy Khôi. Ổng có thương mới la rầy,
chứ không thì, mầy ngu cho mầy chết. Thỉnh thoảng chúng
tôi cũng “hit jackpot”; lính bay ra khỏi xe bị thưong,
hoặc chết... nhưng tôi may phúc là không có số sát quân.
Trên đường đi dọc Dầu Giây, thỉnh thoảng chúng tôi dừng
tàu để cho mấy đơn vị BĐQ đóng dọc theo thiết lộ vài
“can” nước. Một đại úy BĐQ nhãy lên wagon của tôi, thấy
cái “office” của tôi với cái võng treo tòn teng mà thèm
thuồng, “Tôi ước gì được đổi cho anh ba bông mai này để
được một chỗ trên tàu của anh. Tội nghiệp, đời lính đôi
khi chỉ mơ ước một điều tầm thường thế thôi. Quan Ba mơ
làm Thiếu Úy cứ như hồn bướm mơ tiên. Thấy Quan ba ở
dưới một cái hầm nhỏ, vừa nóng, vừa tù túng, người thì
mấy ngày không được tắm đễ biết mình còn quá may mắn hơn
nhiều người trên cái đất nước khốn cùng này. Đại Úy mà
còn khỗ như vậy huống gì là lính. Tội nghiệp hơn nữa là
lúc về lại hậu cứ, đi qua trại gia binh. Thấy vợ lính
ngồi cho con bú trước quán hàng rong xiêu vẹo dưới những
mái nhà tôn nhỏ, nóng nực với ruồi nhặng bu đầy. Bầy con
nít đứa thì trần truồng, đứa thì súng sính trong cái áo
trận rộng thùng thình của cha nó còn cả phù hiệu và bảng
tên, đen đúa, dơ bẩn, mũi chảy thò lò với cái bụng bang
trong đầy sán xơ mít. Chúng chạy rong chơi, vọc mấy đống
nước mưa đọng laị trên đường để uống... biết được có
người lính chết, vợ con họ vẫn bơ vơ tại trại gia binh.
Biết dọn đi đâu bây giờ? Nghĩ lại, lòng thiệt xót xa.
Lương mình chỉ xài được tròn 5 ngày là hết, lương lính
còn ít hơn nữa vậy mà phải nuôi vợ con, nhậu nhẹt say
sưa tối ngày, thêm đánh bạc đầu tháng để mong kiếm thêm
từ những thằng cũng cùng cãnh ngộ long đong như mình,,...
Thỉnh thoãng vợ lính khóc mếu máo với tôi, thiếu úy ơi,
chồng em vừa lãnh lương ra, trốn đi đánh bạc thua hết
tiền tháng này rồi. Em mới đẽ, không có tiền mua sữa cho
con….Thiếu Úy thì cũng khốn nạn chứ có hơn gì. Nhớ lại
những ngày xưa mà xót xa nhỏ lệ cho những người lính
VNCH cùng vợ con của họ.
"Từ cuối 1974 cho đến 1975, 3 Tiễu Đoàn ANTL chính thức bổ sung cho
SĐ/TQLC. Ba TĐ này hình như được phân tán mõng vào các
Lữ Đoàn 147, 258, 369, và 468 (tân lập). LĐ3/TQLC (hay
là TĐ 468?) và LĐ4/ND (?) tân lập vào giờ thứ 25 dưới
quyền Tướng Thiết Giáp Trần Quang Khôi. Chuyện này chưa
được xác nhận, và cũng không được các anh em TQLC và ND
nhắc nhỡ, rất tiếc lúc gặp lại Tướng Khôi mà quên nhờ
ông xác nhận."
*Mạc văn Rần
Trứ , 2 lữ đoàn tân lập của TQLC Lư Đoàn 468 vẫn
trực thuộc BTL sư đoàn TQLC,
và ND là Lư Doàn 4 vẫn trực thuộc BTL sư đoàn ND. Chứ
không ở dưới quyền chỉ Huy của tướng Khôi nào cả.
Tôi (Mạc văn Rần) thuộc LĐ 4 ND TĐ 14. cùng với Châu
Ngọc Có , Lê Mậu Sức , Nguyễn Hùng Dũng, Lý Ngọc Nghĩa
TĐ 12 N D.
TRẦN VĂN KHOẺ thuộc LĐ468. TĐ.16 /TQLC.
2 LĐ tổng trừ bị này được thành lập vào tháng 1/1975 và
từ Đà Nẵng về Sai Gòn bằng HQ 504 và HQ 505 khởi hành
cách nhau 30 phút ngày 20/1/1975.
|