HOME |  | Nước cờ bí  | Đông phương Hồng | An ninh Thiết Lộ | Độc Cô Cữu Kiếm |

Võ Mồm & Võ Bút | | Việt kiều  |  | Danh Tướng |

*****************************************************************************

Độc Cô Cữu Kiếm Vs. Tịch Tà Kiếm Phỗ
(Two finger Grip)
Lê H. Trứ, 342 ;
 February 2013

 

 

“Musashi often use the term "two fingers" to describe the way to hold the long sword. But this does not mean he actually taught the grip with only two fingers. In "The Water Book" he notes: Grip the long sword with a rather floating feeling in your thumb and forefinger, with the middle finger neither tight nor slack, and with the last two fingers tight. It is bad to have play in your hands.”

Trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung,

"Ðộc cô đại hiệp là người thông minh tuyệt đỉnh. Muốn học được kiếm pháp của lão gia, ngươi phải nhớ luôn luôn đến hai chữ "giác ngộ" chứ không phải cứ thuộc lòng mà được. Khi ngươi đã thông hiểu tinh thần về cửu kiếm thì muốn thi triển thế nào cũng được, dù ngươi có quên sạch mọi chiêu số biến hóa cũng không sao. Lúc lâm địch ngươi không còn nhớ một chút gì nữa càng không bị ràng buộc bởi những kiếm pháp đã học. Tư chất ngươi hay lắm, đúng là tài liệu để luyện kiếm pháp này. Từ đây sắp tới, ngươi ráng mà dụng công khổ luyện. Ta đi đây!

Lệnh Hồ Xung được Phong Thanh Dương truyền thụ kiếm pháp ngoài môn "Ðộc cô cửu kiếm" độc đáo, chàng còn lĩnh hội thêm tinh nghĩa về cách dùng "vô chiêu thắng hữu chiêu". Yếu quyết này đi đôi với "Ðộc cô cửu kiếm" bổ xung cho nhau. Về môn "Ðộc cô cửu kiếm" dù đạt đến chỗ vi diệu cực điểm nhưng vẫn còn có chiêu thức để tìm ra dấu vết. Khi Lệnh Hồ Xung học đến kiếm lý dùng "Vô chiêu thắng hữu chiêu" đem ra vận dụng liền khiến cho đối phương không biết đường nào mà mò."

Trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, chúng ta nghe tiên sinh luận về thuyết tĩnh trong Độc Cô Cữu Kiếm và động trong Tịch Tà Kiếm Phỗ. Cả Lệnh Hồ Xung, Hướng Vấn Thiên, Nhậm Ngã Hành và Doanh Doanh cũng không đánh lại một cây kim thiêu áo của Đông Phương Bất Bại. Trong khi đó Độc Cô Cữu Kiếm rất thiện nghệ về tĩnh, tìm chỗ sơ hỡ đễ phản công nhưng thân thũ của Đông Phương Bất Bại di động quá nhanh. Chỉ trong chớp mắt là cái cơ hội đó mất đi liền.

I. Độc Cô Cữu Kiếm

    

I. Độc Cô Cữu Kiếm

  Theo tại hạ Kim Dung tiên sinh đả mượn cái kiếm ý này từ the Book of Five Rings (五輪書 Go Rin No Sho), của Musashi - Phù Tang Độc Cô Bất Bại. Musashi đi khắp nước Nhật tìm đến những tay kiếm sĩ nỗi tiếng để cầu bại mà không được thõa mãn. Trong kiếm đạo Nhật một chiêu thôi là đã phân thắng bại. Người võ sĩ đạo luyện kiếm cả ngàn lần, mất cả chục năm đễ biết sống hay chết trong vòng 1/10 giây sau một trận đọ kiếm.

"Lệnh Hồ Xung lại đi lặp lại câu:

- Ðộc cô cầu bại! Ðộc cô cầu bại!

    Trong lòng hắn tưởng tượng ra một vị tiền bối chống kiếm vào chốn giang hồ, khắp thiên hạ không ai địch nổi. Lão muốn tìm một tay đối thủ bức bách lão quay về thế thủ một chiêu, chỉ một chiêu thôi cũng không được. Tình trạng này thật khiến cho người ta phải kinh hãi và khâm phục hết chỗ nói."

   Lúc hai kiếm sĩ đọ kiếm nhìn tư thế rút kiếm bắt ấn khuyết của đối phương là họ đã biết được đối thủ là tay kình địch nguy hiễm hay không rồi. Thắng bại đã quyết định từ đó. Tại hạ xin gọi đó là “two finger grip.” Những điều mà Musashi đã viết ra đây không có gì bí mật cho những người tập kiếm đạo ngày nay. Nó tự nhiên như ta cầm cây súng lục, ngón tay trõ tự động tìm đến cò súng cho dù đứa con nít lên 3 cũng biết làm một cách dễ dàng.

   Đại khái là kiếm Nhật phải cầm hai tay. Lúc rút kiếm ra khỏi võ, ngón út rồi thì ngón áp út từ khép chắc lại đó là “two finger grip,” ngón giữa không chắc, không lõng. Ngón cái và ngón trõ như khinh. Còn bàn tay kia thì không quan trọng. Tuy đánh kiếm bằng hai tay chứ thật ra điều kiễn bỡi một tay – tay phải. Ngày xưa tỗ tiên ta không cho phép dùng tay trái làm chủ. Bởi vì vậy mới gọi là Trái và Phải. Rút kiếm cũng như đút kiếm chỉ với một động tác dứt khoát nhanh lẹ không cần phải nhìn vào bao kiếm hay thanh kiếm.

    Hướng gió, chỗ đứng cao thấp, và hướng ánh sáng của mặt trời cũng là những yếu tố quyết định sinh tữ. Bốn mắt nhìn nhau không sợ hải, không tức giận như một thiền sư đang tham thiền nhập định. Tia mắt nhìn song song với mặt đất không cao không thấp. Lưng thẵng khí dồn xuống đan điền. Nhìn vào mắt đối thủ đễ đoán biết ý của đối phương sẽ xuất chiêu lúc nào và tấn công mình ở bộ vị nào. Khi đối thủ quyết định tấn công thì vai hơi động, xuống khuỹ tay, tới cỗ tay…rồi thì một nhát kiếm phóng tới mau hơn cái chớp mắt.

"Lệnh Hồ Xung gật đầu lia lịa đáp:

- Dạ dạ! Phép "Ðộc cô cửu kiếm" này phát huy chiêu thứ ba phải chăng dạy người cách liệu địch để chiếm tiên cơ?

Phong Thanh Dương vỗ tay đáp:

- Ðúng lắm! đúng lắm thằng nhỏ này thật dễ dạy đây! Bốn chữ 'liệu địch tiên cơ" đúng là chỗ tinh yếu của chiêu kiếm thứ ba đó. Bất luận là ai sắp ra chiêu nào, nhất định đều có trầm triệu. Ðại khái gã muốn chém một đao vào vai bên tả ngươi tự nhiên gã đưa mắt nhìn vào đó. Nếu lúc ấy thanh đơn đao của gã đang ở phía dưới dĩ nhiên gã vung đao lên vạch thành hình nửa vòng tròn để từ trên chém chênh chếch xuống."

   Khi thấy đối thủ nhìn đâu mà vai động thì ta phải xuất chiêu ngay – "tiên phát chế nhân (la stratégie proactive)” xuất chiêu sau nhưng tới trước. Nếu địch thủ nhìn vào cỗ mình mà vai chưa động thì không nên xuất chiêu trước vì nó cũng chờ như mình, và có thễ đổi ý tìm chổ sơ hỡ khác trước khi tấn công. Cao thủ cảm được cái ý của địch thủ, đễ biết nó Dualism hay là Emptiness. Nếu nó dualism - thân một nơi, hồn một nẽo. Chưa thèm chém mà nó đã nhị phân rồi thì hỗng đáng sợ mấy vì nó sẽ dương đông kích tây. Mà nếu nó Emptiness thì số mình là con rệp. Vì nó tâm- khí- thần hợp nhất với lưu hõa thuần thanh. Con mắt nó nhìn tới đâu là mình cứ như là trinh nữ bị lõa lồ trước con quỹ già râu xanh. Tam thập lục kế dĩ đào vi thượng.

   Kiếm Nhật vẫn có kiếm thế. Những thế chính của Kiếm này đó là chém bay đầu từ bên trái hay phãi, chém xẽ đôi, thế chém ngang hông phải, nhưng không chém bên hông trái nơi đối phương đeo bao kiếm vì nếu chém trúng bao kiếm của đối phương thì mình đã hui nhị tì, không còn sống nữa để mà chém cú thứ hai.

   Cái thế độc nhất là thế đâm cỗ vì cái chiêu này không cần cữ động của vai, khũy tay, và cỗ tay mà chỉ một bướt tiến tới của chân, đồng lúc với khũy tay thúc tới 6 inches là thanh quãn bị một lỗ nhỏ từ từ té xuống trước rồi máu mới phun ra sau, chết trước khi mình biết là bị đâm. Không thấy được kiếm, chỉ biết bị một chấm nhỏ bằng cây nhang đâm ngọt xớt vào cỗ mình lúc nào không hay. May là thế này chỉ có đánh gần chứ không đánh xa được. Nhật không biết chữ “chém vè” chỉ có biết Banzai, tiến chứ không thoái.

"Phong Thanh Dương nói:

  Phép "Ðộc cô cửu kiếm" chỉ có tiến chứ không có thoái. Dĩ nhiên chiêu nào cũng nhằm tấn công, bắt buộc bên địch không thủ không xong. Như vậy thì dĩ nhiên không cần thủ nữa. Người sáng chế ra kiếm pháp này là Ðộc cô cầu bại tiền bối! Cứ một cái tên "Cầu bại " cũng đủ thấy lão nhân gia suốt đời muốn cầu lấy một lần thua mà không sao được. Kiếm pháp này ra đời đã thành thiên hạ vô địch thì còn thủ gì nữa? Giả tỷ có ai đánh lão nhân gia phải xoay kiếm về thế thủ thì lão nhân gia không biết sung sướng đến thế nào? "

   Tự mình suy nghĩ hoài mà không nghĩ ra thế phá này vì nếu bước xéo qua chém vào vai trái hay cổ tay nó như lối đánh trên tiễu thuyết xúi dại của Kim Dung thì với chừng đó động tác sẽ không còn kịp thời gian tính nữa. Cái chiêu đâm thẵng đó nó tới trước khi mình kịp phản công đường vòng.
     Dĩ nhiên, Độc Cô Cửu Kiếm cũng như bất cứ kiếm pháp nào cũng phải có ưu và khuyết điểm ít hay nhiều mà thôi. Nếu đêm tối không thấy đường gặp mấy thằng võ giang hồ đâm chém loạn xạ không chiêu thức thì rất nguy cho mình cũng như lúc Lệnh Hồ Xung và Nhậm Doanh Doanh bị hãm trong động sám hối tối đen như mực ở Hoa Sơn. Võ công cao cở nào cũng vô dụng mà thôi chỉ trừ “hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” may ra mới sống nổi.

 

 

(kiếm nào cũng thua M16 của hình trên)

 

  
   Phong Thanh Dương, "Một người thường chưa học võ công bao giờ cầm kiếm vung loạn lên thì kiến văn người có rộng đến đâu cũng chẳng thể đoán được nhát kiếm của họ đâm chỗ nào, chém vào đâu."
   Hai lỗ tai của Hiệp Sĩ mù như là tai chó nó có thễ cữ động đễ nghe được siêu âm thanh ngữi được cái ý (mind) của đối phương. Ông ta đã đạt được Giác Ngộ, khai thông thiên nhãn (the third eye) thấy được quang (ánh sáng và multiple dimensions) và âm (âm thanh của higher frequencies) không cần đến nhục nhãn của mình nữa. Cái nhìn của tuệ nhãn là cái nhìn của chánh pháp (the truth), cái nhìn của mắt trần là cái nhìn sai lạc (sân si, mê muội). Đó là giác ngộ! Nếu Mussashi tái sinh và đọ kiếm với Hiệp Sĩ Mù thì ông ta có lẻ không cô độc cầu bại nữa mà cầu thắng cũng không thắng nỗi. Vậy mà lúc chúng ta ở VN trước 1975, xem phim Hiệp Sĩ Mù Đại Chiến Độc Thũ Đại Hiệp (Zatoichi and the One-Armed Swordsman,) hai đại tài tữ của Nhật và Tàu đánh nhau thì Vương Vũ (đai nâu Karate, chưa học đánh kiếm ở ngoài đời) hơn Takeshi Kitano (Đệ Tứ Đẵng Kiếm Đạo chính tông) một tí. Hình như phim này có 2 versions, phim chiếu cho Nhật thì Hiệp Sĩ Mù hơn một tí. Sự thật đã chứng minh, kiếm Tàu cũng như võ Tàu chỉ múa may thì đẹp nhưng không mấy võ sư nào biết sử dụng hữu hiệu như Lý Tiễu Long.
    Kiếm Nhật được tinh chế rất công phu mất nhiều năm trời. Kiếm được làm bằng tay từ một cục thép bằng 1/3 viên gạch đập dài, cuộn lại nhiều lớp cho đến khi trỡ thành một cây trường kiếm, rồi thì phải toi luyện nhiều lần trong lữa cao độ... Đa số kiếm cỗ đều đã nếm qua máu người. Đối với Samurai, "kiếm còn, người còn." Cây kiếm được coi như là một lá bùa hộ mạng và được kính trọng tuyệt đối. Không bước qua thanh kiếm đễ dưới đất, cầm kiếm tay phải khi tới nhà bạn đễ tỏ cho biết mình không ở thế tấn công. Lúc gát kiếm - mũi kiếm hướng vào trong nhà, cán hướng ra đường...Người bạn muốn xin coi kiếm mình phải cùng quỳ đối diện. Đưa kiếm mình cho người khác là điều tối kỵ trừ khi là tin tưỡng vào người đó. Người nhận cũng phải đỡ 2 tay cung kính đưa lên trán và lúc rút kiếm ra khõi vỏ đễ xem cũng phải rút ra từ từ, lưỡi bén hướng về phía mình chứ không được hướng về phía chũ kiếm... Đại khái là như vậy, tất cả những nghi thức đó bây giờ vẫn không thay đỗi. Lúc chùi kiếm, nhìn từng cái vân của thanh kiếm rồi từ từ sẽ thấy cái linh khí của kiếm truyền vào mình; kiếm với mình từ Dualism sẽ trỡ thành Non-Dualism - kiếm với người là một. Đó là quốc khí và dân khí của Nhật.
    Một người Mỹ bạn nói, "Tao thà rớt mất vài ngón tay đễ chụp cây kiếm hơn là đễ cây kiếm của tao rớt xuống đất." Đó là dân khí của Mỹ. Học tới nơi tới chốn. Học với mục đích để truyền lại cho đời. Dạy giỏi hơn thầy.
    Tại hạ cũng nghĩ như nó. Nhưng đến lúc đó, không biết là mình có chịu làm "độc thũ đại hiệp" hay nói vậy chứ không phải vậy? Đó là Nhị Nguyên (Dualism.)
    Kiếm Nhật tuy là kiếm chứ thật xữ dụng như đao của Tàu chém nhiều hơn đâm. Ai học kiếm đạo của Nhật cũng biết nguyên lý vô chiêu thắng hữu chiêu, tập luyện ý, thức và thế hàng ngày tại dojos từ xưa cho đến bây giờ; chả có gì bí mật cả.


Chú Thích:
Bạn chỉ mới xem được phần đầu của Quỳnh Hoa Bão Điễn. Cái phần hai dưới đây của Bão Điễn Quỳnh Hoa là Tịch Tà Kiếm Phỗ. Các bạn muốn học thì phải tự thiến trước mới được đọc kinh điễn này.
    Lúc tại hạ cướp được cuốn Tịch Tà Kiếm Phỗ của Lâm Bình Chi. Mỡ ra trang đầu thấy, "Võ Lâm Chí Tôn Dục Đao Tự Cung" thì quá "hãi" (sợ qúa) không muốn luyện nên tìm một thằng bạn cho nó thữ trước. Đó là thằng Đông Phương Bất Bại. Mới điên thoại nó đễ đòi lại kiếm phỗ thì nó cho biết, "Lúc tao mỡ ra trang đầu thấy viết, muốn thành võ lâm chí tôn thì phải cắt cái nợ đời đó đi. Tao không ngần ngại cắt bõ một cái xoẹt chãy máu đầm đìa nhưng cũng không sao. Đến khi lật trang thứ nhì, nó viết [Mà không thiến cũng không sao.] tao quá tức giận thãy cuốn Tịch Tà Kiếm Phỗ đó vào lữa. Lúc nó cháy đến trang cuối cùng thì lữa tắc. Tao thấy ở trang cuối viết, [Sau khi luyện xong nó sẽ mọc lại dài ra hơn.] Bây giờ kinh mất, tật mang! Tao bắt đền mày đó."
 

 

II. Tịch Tà Kiếm Phỗ

"Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung: - Ðáng tiếc là bọn họ không hiểu rõ chiêu số là phần "tĩnh", người phát chiêu mới là phần "động". Chiêu số "tĩnh" phá giải kỳ tuyệt đến đâu mà khi gặp chiêu số "động" liền chịu bó tay thì chỉ còn đường để mặc người ta chu lục. Vậy ngươi phải nghĩ luôn luôn đến chữ "động". Học và xử đều cần hướng đến chiêu số "động" nếu cứ ỳ ra như cục đất không biết biến hóa thì dù có thuộc hàng nghìn hàng vạn chiêu số "tĩnh" mà gặp phải tay cao thủ chân chính là bị họ phá giải sạch sành sanh.

   Phong Thanh Dương nói tiếp: - Luyện võ và xử chiêu linh động, mới chỉ là bước đầu. Luyện đến chỗ ra tay không còn chiêu thức mới tiến vào trình độ tuyệt luân. Theo người thì những chiêu luyện tới chỗ tối cao là không tài nào phá giải được. Ý nghĩ đó chỉ đúng có một điểm là chiêu thức dù có cao đến đâu mà để đối phương tìm thấy đường lối là có thể nhận kẽ hở phá mình ngay. Còn như đã không có chiêu thức thì địch nhân phá vào đâu?

   Lệnh Hồ Xung trống ngực đập loạn xạ. Miệng lẩm bẩm:

- Ðã không chiêu thức thì phá vào đâu? Ðã không chiêu thức thì phá vào đâu?"

"The real mark of a champion’s skills is flexibility of actions while maintaining a cool head and having an instinctive understanding of his opponent’s potential actions and responses. All of which comes about through dedicated training and practice not just in the physicality of fencing itself but also learning from by observing an opponent. This observation is not just on the basis of their respective skills but also through developing an idea of the opponent’s personality type. Numerous studies have been done on athlete personality types and they are well worth more than a cursory look. Such an understanding allows a fencer not only to understand others but also to have an appreciation of himself with regard to personal strengths and weaknesses." Essentials of Fencing Technique, by Richard Howard.

    Những lời trên chỉ cần tóm tắc trong 4 chữ chính - quyền biến (vô chiêu, tùy cơ ứng biến) và quan sát (tri ý - đọc được ý nghĩ của đối thủ). Kiếm thuật của Tàu vẫn câu nệ trong chiêu thức. Một bài kiếm có cả trăm thế hỡ hang và không biết ứng biến (flexibility of actions.) Một thế bị phá thì không thễ dùng được các thế kế tiếp được vì không biết quyền biến tự nhiên.

"Phong Thanh Dương dạy:

- Nhất thiết ngươi nên thuận theo tự nhiên, chỗ nào không làm được thì đừng làm, chỗ nào thôi thì phải thôi ngay. Nếu không thể cho dính lại liền thành một xâu cũng bỏ quách. Tóm lại đừng có chút nào miễn cưỡng."

   Khoái đao của Điền Bá Quang chính là lối đánh của Hiệp Sĩ Nhật Bản. Tại hạ chưa thấy một ông thầy dạy kiếm Tàu nào có trình độ và kiến thức về kiếm ý như Kim Dung. Tiên sinh không biết một chút võ công chỉ dùng cây bút quèn mà làm say mê hàng triệu độc gĩa vì tiên sinh đã ngộ cái lý thuyết cao siêu của võ học và nhân sinh quan - Không (vô chiêu, emptiness)!

   Một đòn tấn công kèm theo tiếng Kiai của cao thủ Nhật thì cở Lệnh Hồ Xung sẻ không còn cái đầu đễ mà uống rượu, không kịp thì giờ đễ mà vãi đái trong quần. Điều này đã được chứng minh khi Nhật xâm chiếm Tàu. Một thằng Nhật với một cây súng và lưỡi lê có thể giết cả trăm thằng Tàu. Vì chúng nó quá hèn và sợ không dám chống lại; thà chết còn hơn chống lại quân xâm lăng. Không biết chúng nó sợ cái gì hơn là cái chết? Lúc quân Tàu phù ghẽ lở và đói rách của Tướng Lư Hán theo chân Ăng Lê từ Trung Hoa qua tước khí giới của Nhật ở ViệtNam sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện. Quân Nhật xếp hàng hô giải giới theo nghi lễ quân cách, vậy mà quân Tàu (phe thắng trận) sợ quá bỏ chạy. Từ cái mặc cảm tự ty đó nên mới có cái phim tự tôn - Tinh Võ Môn của Lý Tiễu Long. Nhìn người mà ngẫm đến ta!

   Trên lý thuyết, cái ông võ sĩ Nhật nầy chưa kịp há mồm dùng thần công sư tữ hống thì đã ăn một kiếm của Tây vào cỗ rồi. Kim Dung phải la lên, "Tịch Tà Kiếm Phỗ! Tịch Tà Kiếm Phỗ!" Kiếm Tây nhanh gấp 10 lần kiếm Nhật hơn một 20 lần kiếm Tàu. Mắt ta không thấy kịp, một phần vì thân kiếm thon nhõ và nhẹ hơn kiếm Nhật và Tàu. Trong lúc tranh tài các đấu thủ phải mang áo điện, chấm điễm bằng máy điện tữ, con mắt nhà nghề của trọng tài không cách gì mà thấy được ai touché trước.

   Ngược lại với cách grip của kiếm Nhật. Kiếm Tây cũng "two finger grip" nhưng mà grip ngón tay trỏ và ngón tay cái. Ngón giữa, áp út và ngón út khép lại nhẹ nhàng không trọng không khinh. Cầm kiếm gentle cứ như là cầm cây kim thiêu mong manh sợ nó gãy. Nếu cầm đúng cách thì khi cây kiếm khác gõ nhẹ vào kiếm mình, mình phải văng (rớt) kiếm.

   Lý của kiếm Tây là "siêu vô thức" vì khi hai đối thủ so kiếm mình chỉ thấy được cái đầu kiếm nhỏ như đầu mũi nhang chiếu vào giữa mi tâm của mình. Cái tuyệt diệu của thế kiếm Tây là nó không bắt đầu từ vai, khũy tay, cỗ tay như các loại kiếm khác mà ngược lại một cái rung nhẹ ở ngón cái và ngón trõ được che dấu sau cái guard là kiếm đã phóng ra như điện xẹt không thấy được các phần khác rung động. Một chiêu bao gồm cả công thũ, liên miên bất tuyệt trong một thế có cả mấy chục thế "quyền biến" kế tiếp trong vòng sát na. Cổ tay, khủy tay, vai, ngay cả toàn thân kiếm sĩ lao tới như một viên đạn ra khỏi nòng súng nhanh hơn Đông Phương Bất Bại và d'Artagnan trong Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thũ (Les Trois Mousquetaires) ngày xưa nhiều. Lùi cũng như tiến điều như nhau nhưng "thối tấn" lui theo thứ tự ngược. Tất cả các động tác đó như là một, xảy ra trong sát na. Chỉ có quay ngược video với tộc độ chậm mới thấy được từng động tác công thủ, tiến thoát của kiếm sĩ.

    Động tác của các fencers này linh ão như không gian gió thỗi đầy vườn vắng, thoáng dáng tiên nga nhẹ gót đào, đẹp như Hằng Nga múa trên nguyệt điện, lẹ như tia chớp, và công thủ rất kín đáo mới thoáng thấy là đả mất liền.

    Kiếm Tây là kiếm của gentlement dành cho người quý tộc - apres vous! (xin mời ngài ra chiêu trước!) cho nên thế đánh phải thanh nhã và mã thượng như đùa như dỡn. Nếu đối thũ, tức giận sẽ phạm vào điều tối kỵ của kiếm pháp. Lệnh Hồ Xung, Nhậm Ngã Hành, Hướng Vấn Thiên, cùng Doanh Doanh vây đánh không lại Đông Phương Bất Bại. Tất cả suýt chết vì Đông Phương Bất Bại lúc nào cũng dịu dàng như con gái, vừa nhu mì với Dương Liên Đình, vừa ân tình với bạn rồi bất thần ra tay như điện chớp. Hạ thũ nơi nào, khi nào không lường trước được. Cho đến khi Đông Phương Hoành thương tích đầy mình nhưng vẫn dịu dàng xin tha cho Dương Liên Đình không được, nỗi giận thí mạng phạm vào điều tối kỵ cũa kiếm ý nên bị giết chết. Tuy chết nhưng chữ "Bất Bại" không chết.

 

 

  Sau khi mặt bộ đồ fencing vào, đeo mặt nạ lưới sắc, từ từ hạ kiếm (foil) chào nhau như trong film Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thũ. Các fencers này đã lột xác trở thành hiệp sĩ thật sự trong giây phút đó. Toàn thân họ relax từ sợi tóc cho đến ngón chân tưỡng như là có một luồng chân khí đi từ đầu cho đến ngón chân, từ vai tới khũy tay, cổ tay rồi thì tụ lại ngay đầu mũi kiếm. Ngón trõ và ngón cái nhẹ vô lực, ngón giữa, áp út và ngón út từ từ khép lại ôm lấy cán kiếm. Mắt nhìn xuyên thấu mặt đối thủ "with no mind," quan sát cá tính đối phương để biết đối thủ chuyên công hay thủ mà tấn công trước hay chờ phản công. Kiếm thức chỉ nội trong cái vòng lớn cở đường kính của trái banh tennis, cho nên nó rất kín đáo và khó phá được.

    Kim Dung đã mượn cái ý đó khi tả Lệnh Hồ Xung đấu với Xung Hư Đạo Trưởngng của Võ Đang. Tất cả fencers đều đánh nhau trong cái vòng nhỏ đó từ trước đến nay chả có gì bí mật cả.

   Chúng ta chưa bao giờ học kiếm Tây nên bị Kim Dung xạo ke. Tập đánh kiếm phải mang áo giáp, găng tay. Vì nón che mặt nên không thấy được mắt đối thủ làm mất đi một phần tinh túy của “kiếm thức” nhưng bù lại “chiêu thế” được rèn luyện tinh vi hơn ngày xưa. Kiếm thuật ngày nay, không còn là một môn võ nguy hiễm chết người mà đã trỡ thành một môn thể thao đễ rèn luyện thân,tâm, trí.

"Phong Thanh Dương lại nói:

- Một người thường chưa học võ công bao giờ cầm kiếm vung loạn lên thì kiến văn người có rộng đến đâu cũng chẳng thể đoán được nhát kiếm của họ đâm chỗ nào, chém vào đâu. Dù là tay kiếm thuật tinh thâm rất mực cũng không phá nổi chiêu thức của họ, vì họ chẳng có chiêu thức chi hết. Hai chữ "phá chiêu" thành ra vô nghĩa. Có điều kẻ không học võ công mà không hiểu chiêu thức tất bị người ta đánh ngã một cách dễ dàng. Còn những tay kiếm thuật chân chính vào thượng thặng mà không chiêu số thì kiềm chế được người mà không để cho ai kiềm chế mình.

Lão lượm một khúc xương đùi người chết lên cầm một đầu giơ ra trước mặt Lệnh Hồ Xung hỏi:

- Bây giờ ngươi phá chiêu này bằng cách nào?

Lệnh Hồ Xung không biết đó là chiêu thức gì, ngơ ngác đáp:

- Ðây không phải là chiêu thức nên đồ tôn không phá giải được.

Phong Thanh Dương tủm tỉm cười nói:

- Chính là thế đó. Nếu địch nhân sử binh khí hay động quyền cước thành chiêu thức, thì ngươi chỉ cần biết cách phá giải là ra tay phá chiêu thắng địch được ngay.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

- Nếu địch nhân không có chiêu thức thì sao?

Phong Thanh Dương đáp:

- Ấy đó! Ta muốn nói: Ðối phương cũng là tay cao thủ hạng nhất. Cả hai bên tùy ý muốn đánh cách nào cũng được, chưa nhất định ai hơn ai kém..."

Bruce Lee (Lý Tiễu Long) học cái tấn và movements của fencing mà ra. Bruce Lee còn học cái dance của Mohamed Ali vì anh ta biết có một ngày anh ta sẽ đấu với Ali. Bruce thường coi phim Ali's fights và danced theo bướt chân của Ali. Tuy nhiên không biết Lý Tiễu Long có biết cái đấm của Boxing là cái đấm của Tịch Tà Kiếm Phổ không? Người nào bị nếm thử rồi mới biết nó nựng dễ thương tới cỡ nào. Cái jab cũa boxing nó nhanh hơn chớp mắt. Nó là tỗng hợp của vô chiêu, Độc Cô Cữu Kiếm và Tịch Tà Kiếm Phỗ - kiếm là quyền, quyền là kiếm. Nội lực (energy) được tiết kiệm tối đa và xuất phát tùy tâm. Đánh Boxing mà không mang găng tay thì mình gãy tay vì nắm tay hờ hững, không nắm chặc lại như Không Thủ Đạo. Tuy vậy cái thằng ăn đấm cũng bễ não vì nó là "cách sơn đã ngưu." Mục tiêu của cái đấm đó sau target 9 inches, dùng bắp thịt sau lưng (punching muscles.) Trúng rồi thì quả đấm chặc lại đồng thời nội kình mới nhã ra liên miên bất tuyệt. Chưa trúng mục tiêu thì nhanh như điện nhưng không có nội lực. Trúng rồi thì nó bám theo mình như mãn hoa thiên vũ cho đến khi mình KO. Boxing trained by seconds but in minutes. Võ sĩ đánh boxing như là Samurai chỉ có gục chứ không chạy. Họ không sợ đau vì đả ăn đòn quen rồi trong lúc tập.

    Chỉ có "borned fighter" mới lên đài được còn ba cái thứ studio arts như Karate, Tae Kwon Do,Võ Tàu...thì vứt đi. Tập đễ lên đài như Muay Thai (Võ Thái Lan), Boxing, Đô Vật, UFC...nó không lè phè như tập mấy cái Martial Arts con nít khác. Không thể dạy con gà nuốt dây thun, hay con vịt đẹt thành con cọp. Nó phãi là con cọp mạnh nhất trong rừng được rèn luyện kỹ càng mới thượng đài được. Võ đài là nơi long tranh hỗ đấu.

"Vị thái sư thúc tổ này hồi còn ít tuổi chắc cũng giống tính mình, chẳng biết sợ trời đất là gì, muốn thế nào là làm thế. Lúc lão gia dậy mình kiếm pháp đã bảo: "Ngươi xử kiếm pháp chứ không phải kiếm pháp xử người" tức là con người sống động mà kiếm pháp là phần tĩnh. Người sống động chẳng thể để cho kiếm pháp tử tĩnh ràng buộc. Lý thuyết này thật đúng quá! Vậy mà sư phụ không nói thế bao giờ?" Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung.

   Tóm lại, tất cả chúng ta đang dùng kiếm ý (tĩnh, động) trong cuộc sống hàng ngày nhưng vì bị cái ma tâm, khỗ nghiệp (karma, suffering) ràng buộc (bị tâm viên ý mã và ngũ uẩn xử dụng và chi phối) nên "chưa ngộ" được cái Không (emptiness, vô chiêu) đó mà thôi. "Sắc tất thị không, không tất thị sắc"(vô chiêu, hữu chiêu.)

Phật dạy, "Đừng vội tin những gì ta nói!"

hay là "Thấy vậy chứ không phãi vậy!" (Le huy Tru)

 

Note: Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung hơn 5000 chữ của Độc Cô Cữu Kiếm bài viết này cũng ngẫu nghiên viết trên 5000 chữ.

 

References:

Zatoichi and the One-Armed Swordsman, also known as Zatoichi Meets the One-Armed Swordsman, is a 1971 Hong Kong and Japanese wuxia/chambara crossover film directed by Chinese film director Hsu Tseng Hung and Japanese film director Kimiyoshi Yasuda. The film stars Jimmy Wang Yu as the "One-Armed Swordsman" Wang Gang and Shintaro Katsu as the blind masseur Zatoichi. This film is a crossover of the One-Armed Swordsman and Zatoichi film series.

http://en.wikipedia.org/wiki/Takeshi_Kitano

Essentials of Fencing Technique, Richard Howard.

Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung

 

Copyright by anloc471.com 2009. All Rights Reserved. Design Ngan Nguyen 323